601. ☀ Nước Văn Lang và triều Hùng Vương trong tư liệu lịch sử và ngôn ngữ

Trong lịch sử Việt Nam, các sách sử, các truyện cổ đều ghi chép về thời kỳ Hồng Bàng, Hùng Vương và nước Văn Lang, Hùng Vương là những người làm chủ nước Văn Lang, nước Văn Lang được hình thành từ cuộc di cư về Việt Nam diễn ra khoảng 4000 năm trước của 50 người con cùng với Mẹ Âu Cơ, đóng đô ở Phong Châu, cử con cả lên làm Hùng Vương và phân đất cho các em cai trị. Sự hình thành của thời kỳ Hùng Vương bắt đầu từ sự định cư tại Việt Nam của người Việt.

Do sự ghi thành văn muộn của Hùng Vương, Văn Lang trong lịch sử Việt Nam, thời kỳ này đã hứng chịu không ít sự công kích, được cho là một sự sáng tạo lịch sử của các sử gia trung đại, ví dụ như (Kelley, 2012) đã buộc tội các sử gia trung đại Việt Nam đã “kiến tạo truyền thống”, cho rằng thời kỳ Hùng Vương và quốc gia Văn Lang là một “truyền thống được kiến tạo” (invented tradition).

Sự buộc tội này dường như có chủ đích rõ ràng, phủ nhận được thời kỳ Hồng Bàng, Hùng Vương, cũng là xóa bỏ lịch sử thời kỳ cổ đại của Việt Nam, làm nền tảng cho sự xuất hiện của các giả thuyết sai lệch khác về nguồn gốc của người Việt, thêm nữa các học giả đã (cố tình) bỏ qua một thực tế, rằng người Việt đã trải qua 1000 năm Bắc thuộc, tất yếu, những thông tin về Hùng Vương, Văn Lang đều phải thông qua sự truyền miệng trong dân gian, sau đó mới được chép thành văn vào thời Trần, không phải tới khi ấy, Hùng Vương, Văn Lang mới xuất hiện.

Trong thực tế, không chỉ lịch sử Việt Nam, mà lịch sử Trung Quốc cũng chép về thời kỳ Hùng Vương, và quốc gia Văn Lang, những ghi chép này có vai trò rất quan trọng trong việc chứng minh về quốc gia Văn Lang và thời kỳ Hùng Vương, trong bối cảnh những ghi chép của người Việt đã bị phủ nhận sạch trơn.

1. Văn Lang:

1.1. Văn Lang trong lịch sử Trung Hoa:

Trong lịch sử Trung Quốc, nước Văn Lang được chép lại dưới hai cái tên: Văn Lang 文狼 và Văn Lãng 文朗, hai chữ Lang 狼 và Lãng 朗 đã cho thấy Văn Lang vốn là tên gọi quốc gia do người Việt tự nhận, được các học giả Trung Hoa chép lại vào sử sách bằng chữ Hán bằng các mặt chữ khác nhau.

Sách chép lại sớm nhất về nước Văn Lang là bộ Thông Điển 通典 của Đỗ Hữu, được biên soạn vào đời nhà Đường, đây là một trong những bộ sử lớn và quan trọng nhất của Trung Quốc. Sách chép như sau: “峰州今理嘉寧縣.古文朗國,有文朗水.亦陸梁地.秦屬象郡.二漢屬交趾郡.吳分置新興郡.晉武改為新昌郡,宋齊因之.陳兼置興卅.隋平陳,郡廢,改為峰州;煬帝初州廢,併入交趾郡.大唐復置峰州,或為承化郡.領縣五:嘉寧,承化,新昌並漢麊泠縣地,麊音麋.嵩山,珠綠.” – “Phong châu, nay trị ở huyện Gia Ninh. Là nước Văn Lãng xưa, có sông Văn Lãng. Cũng là đất Lục Lương. Thời Tần thuộc Tượng Quận. Thời Nhị Hán (tức nhà Tây Hán và nhà Đông Hán) thuộc quận Giao Chỉ. Nhà Ngô chia đặt ra quận Tân Hưng. Thời vua Tấn Vũ đổi tên là quận Tân Xương, nhà Tống-Tề đều noi theo như thế. Thời nhà Trần đặt thành Hưng châu. Nhà Tùy bình nhà Trần, bỏ quận ấy, đổi thành Phong châu. Đầu thời vua Dạng Đế thì bỏ châu ấy, cho gộp vào quận Giao Chỉ. Nhà Đại Đường đặt lại Phong châu, có khi đổi gọi là quận Thừa Hóa. Lĩnh năm huyện: – Huyện Gia Ninh, huyện Thừa Hóa, huyện Tân Xương, đều là đất của huyện Mê Linh thời nhà Hán. Mê (), đọc là mi (); – Huyện Tung Sơn, huyện Châu Lục.” (Bản dịch của Quyển Tích)

Thời Bắc Tống, các sách Thái Bình Hoàn Vũ Ký 太平寰宇記, và Thái Bình Ngự Lãm 太平御覽 do Tống Thái Tổ cho soạn cũng chép về nước Văn Lang.

Thái Bình Hoàn Vũ Ký chép: “峯州,承化郡,理嘉寜縣.古文狼國,有文狼水.亦陸梁地.秦屬象郡.二漢屬交趾郡.吳分置新興郡.晉武乃為新昌郡.宋齊因之.陳兼置興州.隋平陳,郡廢,改為峯州.煬帝初州廢,并入交趾郡.唐武徳四年復置峯州,領嘉寜新昌安仁竹輅石隄封溪六縣.貞觀元年廢石隄封溪入嘉寜,竹輅入新昌.天寳元年改為承化郡.乾元元年復為峯州.元領縣五:嘉寧,新昌,承化,嵩山,珠緑.” – “Phong châu, có thời gọi là quận Thừa Hóa, trị ở huyện Gia Ninh. Là nước Văn Lang thời xưa, có sông Văn Lang. Cũng là đất Lục Lương. Thời nhà Tần thuộc Tượng Quận. Thời nhà Nhị Hán thuộc quận Giao Chỉ. Nhà Ngô chia đặt ra quận Tân Hưng. Thời vua Tấn Vũ lại đổi tên là quận Tân Xương. Các nhà Tông-Tề noi theo đó. Nhà Trần đặt ra Hưng châu. Nhà Tùy bình nhà Trần, bỏ quận ấy, đổi thành Phong châu. Đầu thời vua Dạng Đế bỏ châu ấy, gộp vào quận Giao Chỉ. Thời nhà Đường năm Vũ Đức thứ tư đặt lại Phong châu, quản lĩnh sáu huyện là Gia Ninh, Tân Xương, An Nhân, Trúc Lộ, Thạch Đê, Phong Khê. Năm Trinh Quan nguyên niên bỏ hai huyện Thạch Đê-Phong Khê gộp vào huyện Gia Ninh, bỏ huyện Trúc Lộ gộp vào huyện Tân Xương. Năm Thiên Bảo nguyên niên đổi gọi là quận Thừa Hóa. Năm Càn Nguyên nguyên niên gọi lại là Phong châu. Lúc đầu quản hạt năm huyện là Gia Ninh, Tân Xương, Thừa Hóa, Tung Sơn, Châu Lục.” (Bản dịch của Quyển Tích)

Thái Bình Ngự Lãm dẫn Phương Dư Chí 方輿志 chép: “《方輿志》曰:峰州,承化郡.古文郎國,〈有文郎水.〉亦陸梁地.秦屬象郡.二漢屬交趾郡.吳分置新興郡.晉改爲新昌.陳置興州.隋平陳,改爲峰州;煬帝初,廢.唐復置峰州.” – “Phương dư chí chép: Phong Châu có thời gọi là quận Thừa Hóa. Là nước Văn Lang thời xưa, có sông Văn Lang. Cũng là đất Lục Lương. Thời nhà Tần thuộc Tượng Quận. Thời nhà Nhị Hán thuộc quận Giao Chỉ. Nhà Ngô chia đặt ra quận Tân Hưng. Nhà Tấn đổi gọi là quận Tân Xương. Nhà Trần đặt ra Hưng châu. Nhà Tùy bình nhà Trần, đổi gọi là Phong châu. Đầu đời vua Dạng Đế bỏ châu ấy. Nhà Đường đặt lại Phong châu.” (Bản dịch của Quyển Tích)

Nội dung của các ghi chép trong Thông Điển, Thái Bình Hoàn Vũ Ký, Thái Bình Ngự Lãm về đại thể đều giống nhau, chép về nước Văn Lang / Văn Lãng tại Phong Châu. Thông Điển có trước sách Lĩnh Nam chích quái khoảng 500 năm, trước sách Đại Việt sử ký toàn thư khoảng 700 năm, các sách Thái Bình Hoàn Vũ Ký cũng như Thái Bình Ngự Lãm cũng xuất hiện sớm hơn sách Lĩnh Nam chích quái và Đại Việt sử ký toàn thư, hơn nữa, các sách này đều tham khảo từ sách đã có từ trước đó là Phương Dư Chí, nên không có nghĩa lúc ấy nước Văn Lang mới được chép lại. Các ghi chép này trong lịch sử Trung Hoa đã xác nhận sự tồn tại của nước Văn Lang theo những lưu truyền và ghi chép của người Việt.

Chính sử và tài liệu thành văn Trung Quốc cũng chép về Văn Lang, đó là cơ sở để khẳng định: nước Văn Lang không phải là sáng tạo của các sử gia thời trung đại như một số học giả đã quy kết.

1.1. Văn Lang – Văn Lãng trong tư liệu ngữ âm lịch sử:

Qua các ghi chép lịch sử, chúng ta đã thấy được Văn Lang được chép trong lịch sử dưới hai cái tên: Văn Lang 文狼 (文郎) hoặc Văn Lãng 文朗, cả hai từ này là cách chép khác nhau về mặt chữ của cùng tên một quốc gia. Xem xét về ngữ âm lịch sử, các từ này đều có gốc từ ngôn ngữ Austroasiatic.

Phục nguyên âm thượng cổ của “Văn” 文: Karlgren: *mi ̯wən; Lí Phương Quế: *mjən; Vương Lực: *miən; Baxter: *mjən; Trịnh Trương Thượng Phương: *mɯn; Phan Ngộ Vân: *mɯn. (Phan, 2020)

Âm phục nguyên này của Văn 文 có liên quan tới tên tự nhận của các dân tộc nói ngôn ngữ Austroasiatic, như người Môn tự nhận mình là ‘Mon’ hay ‘Mun’, người Mường tự nhận mình là ‘Mol, Mon, Moan, Mual’, đều có nghĩa là “người”.

(Ferlus, 2009b) đã phục nguyên âm thượng cổ của Lang 郎 như sau:

láng 郎<MC lang <OC *C-rang [C.raŋ]

Trong ngôn ngữ Maleng, một ngôn ngữ Vietic tại Lào, tên của dân tộc này có thể được xác định là *m.raŋ thông qua hình thức muộn là *m.leŋ. Như vậy Lang 狼 là một từ được chỉ dụng để chỉ người. Nhưng theo (Phan, 2020), thì lang trong ngôn ngữ Việt-Mường có nghĩa hẹp hơn từ mun/mol, dùng chỉ riêng đàn ông, quý tộc, hay vua quan.

Phục nguyên của Lãng 朗 theo (Schuessler, 2007, p. 344):

lǎng 朗 < LH lɑŋ <OC râŋʔ

So sánh với các từ Khmer rana /rɔɔŋ/ ‘tỏa sáng, sáng, trở nên rõ ràng, làm sáng tỏ’, tiếng Môn cổ aran /rɔŋ/ ‘long lanh’. Các từ này tương ứng với nghĩa hiện đại của lãng là ‘sáng, rực rỡ’. Âm phục nguyên của Lãng *râŋʔ cũng khá gần với Lang *raŋ.

Như vậy cả ba từ Văn 文, Lang 狼(郎), Lãng 朗, đều là các từ có liên quan tới ngôn ngữ Austroasiatic, là các từ ghi âm và người Trung Quốc chép lại từ ngôn ngữ và cách tự nhận của người Việt.

Dựa trên âm phục nguyên của các thành tố liên quan, thì Văn Lang 文狼 (文郎) nhiều khả năng là một cụm từ chỉ vùng đất của vua (Hùng), Văn Lãng 文朗 ghép lại thành cụm “người sáng”, phải chăng Văn Lãng có liên quan tới phong tục thờ (Mặt) Trời mà chúng ta thấy được trên trung tâm của tất cả các trống đồng Đông Sơn? Nếu đúng như vậy, thì Văn Lãng 文朗 có thể giải thích là “đất nước của những người tôn thờ (Mặt) Trời”.

Ngữ âm lịch sử sẽ chỉ giải thích được một phần nào đó về nguồn gốc của tên gọi Văn Lang, nhưng qua đây, có thể thấy tất cả các từ Văn, Lang, Lãng đều có nguồn gốc từ ngôn ngữ Austroasiatic, được người Hoa Hạ chép lại dưới những chữ Hán khác nhau. Đây là cơ sở để khẳng định rằng người Hoa Hạ chỉ chép lại những thông tin về quốc gia của người Việt, không phải do họ sáng tạo nên những cái tên này.

2. Hùng Vương:

2.1. Hùng Vương trong các ghi chép lịch sử Trung Hoa:

Bên cạnh những ghi chép về nước Văn Lang, Hùng Vương, chủ nhân của nước Văn Lang theo những lưu truyền của người Việt, cũng được chép lại trong lịch sử Trung Hoa.

Sách Cựu Đường Thư, một bộ chính sử lớn của Trung Hoa, được hoàn thành vào khoảng năm 945 SCN bởi Lưu Hú, dẫn Nam Việt chí được viết vào thời Lưu Tống (420 – 479 SCN) chép như sau: “交趾之地,最為膏腴.舊有君長曰雄王,其佐曰雄侯.後蜀王將兵三萬討雄王,滅之.蜀以其子為安陽王,治交趾.其國地,在今平道縣東.其城九重,周九里,士庶蕃阜.尉佗在番禺,遣兵攻之.王有神弩,一發殺越軍萬人,趙佗乃與之和,仍以其子始為質.安陽王以媚珠妻之,子始得弩毀之.越兵至,乃殺安陽王,兼其地.” – “Đất Giao Chỉ rất màu mỡ, ngày xưa có quân trưởng gọi là Hùng Vương, phụ tá là Hùng Hầu. Sau có vua Thục đem ba vạn lính đánh diệt Hùng Vương đi. Vua Thục nhân đó cho con mình làm An Dương Vương, trị đất Giao Chỉ. Đất nước ấy ở phía đông huyện Bình Đạo ngày nay. Thành nước ấy có chín vòng, chu vi chín dặm, dân chúng đông đúc. Úy Đà đóng đô ở thành Phiên Ngung phát binh sang đánh. Vương có nỏ thần bắn một phát giết một vạn quân Việt. Triệu Đà bèn hòa với vương, rồi sai con mình tên là Thủy làm con tin. An Dương Vương đem con gái tên là Mị Châu gả cho Thủy, Thủy thấy được nỏ thần bèn hủy đi. Kịp khi quân Việt đến liền giết An Dương Vương, chiếm cả nước ấy.” (Bản dịch của Tích Dã)

Sách Thái Bình quảng ký hoàn thành vào thời nhà Tống, cũng dẫn theo Nam Việt chí thời Lưu Tống (420 – 479 SCN): “交趾之地,頗為膏腴,從民居之,始知播植.厥土惟黑壤.厥氣惟雄.故今稱其田為雄田,其民為雄民.有君長,亦曰王;有輔佐焉,亦曰雄侯.分其地以為雄將.” – “Đất Giao Chỉ vốn màu mỡ, di dân tới sống ở đó, (dân) mới bắt đầu biết gieo trồng, đất vùng ấy đen xốp, khí đất hùng mạnh, cho nên gọi ruộng ấy là Hùng Điền, dân vùng ấy gọi là Hùng Dân. Quân trưởng gọi là Hùng Vương. Có phụ tá là Hùng Hầu, chia đất cho các Hùng Tướng.

Ngoài những ghi chép nhắc tới danh xưng Hùng Vương, một số ghi chép khác trong tài liệu Trung Quốc có nhắc tới Lạc Vương. Chữ Hùng 雄 và chữ Lạc 雒 tương đối giống nhau, nên các nhà chép sử Trung Hoa có thể nhầm lẫn khi chép lại những thông tin họ thu thập được, tương tự như trường hợp của Văn Lang / Văn Lãng. Sự nhầm lẫn tương tự trong các ghi chép lịch sử Trung Hoa không phải là điều hiếm thấy.

Thủy Kinh chú, do Lịch Đạo Nguyên biên soạn vào thời Bắc Ngụy, dẫn Giao Châu ngoại vực ký chép: “交趾昔未有郡縣之時,土地有雒田,其田從潮水上下,民墾食其田,因名為雒民,設雒王,雒侯,主諸郡縣.” – “Đất Giao Chỉ ngày xưa khi chưa đặt thành quận huyện, đất đai có ruộng Lạc, dân làm ăn ở ruộng ấy theo nước thủy triều lên xuống, nhân đó có tên là dân Lạc, đặt ra Lạc Vương – Lạc Hầu để làm chủ các quận huyện, huyện phần nhiều có chức Lạc tướng, Lạc tướng đeo ấn đồng thao xanh.” (Bản dịch của Tích Dã)

Sử ký, sách ẩn do Tư Mã Trinh biên soạn vào đời nhà Đường, dẫn Quảng Châu ký chép: “史記》卷百一十三南越列傳第五十三索隱引《廣州記》云:交趾有駱田,仰潮水上下,人食其田,名為駱人.有駱王,駱侯.諸縣自名為駱將,銅印青綬,即今之令長也.後蜀王子將兵討駱侯,自稱為安陽王,治封溪縣.後南越王尉他攻破安陽王,令二使典主交阯,九真二郡人.” – “Giao Chỉ có ruộng Lạc, dân trông nước thủy triều lên xuống mà làm ăn ở ruộng ấy nên đặt tên là người Lạc. Có các chức Lạc Vương – Lạc hầu, các huyện tự đặt chức Lạc tướng đeo ấn đồng dải xanh, tức là chức Lệnh-Trưởng ngày nay vậy. Sau đó con vua Thục đem quân đánh Lạc Hầu, tự xưng là An Dương Vương, trị ở huyện Phong Khê. Sau nữa vua Nam Việt là Úy Tha đánh phá An Dương Vương, sai hai sứ giả điển chủ người hai quận Giao Chỉ-Cửu Chân.” (Bản dịch của Tích Dã)

Những ghi chép này cho thấy đất Giao Chỉ có Hùng Vương làm chủ, trong các đoạn trích trên, các sách đều không chép rõ là “quận”, Thủy Kinh chú còn chép rõ “chưa đặt thành quận huyện”, cho thấy khái niệm Giao Chỉ được nhắc tới ở đây ít nhất là Giao Chỉ bộ, và vùng đất chỉ khái niệm Giao Chỉ có thể lớn hơn, qua những ghi chép về khái niệm Giao Chỉ sẽ được chúng tôi khảo cứu rõ hơn ở phần 3.

2.2. Hùng Vương không phải chép nhầm từ Lạc Vương:

Một số học giả, bắt đầu từ Henri Maspéro (Maspéro, 1948), thông qua ghi chép trong Thủy Kinh chú, đã kết luận rằng Hùng Vương chép nhầm từ Lạc Vương, tiền nhân của người Việt đã nhầm mặt chữ mà nhận lầm Hùng Vương, đúng ra phải là Lạc Vương.

Cần làm rõ cách tiếp cận vấn đề Hùng Vương hay Lạc Vương của Henri Maspéro (và nhiều học giả khác tiếp nối sự tranh luận do ông khơi mào), ông cho rằng Hùng Vương của người Việt có nguồn gốc từ lịch sử Trung Hoa, tức Hùng Vương là một sáng tạo lịch sử của người Việt qua những ghi chép của lịch sử Trung Hoa.

Cách tiếp cận này của Maspéro thiếu tinh thần khách quan và tôn trọng sự thực khi nghiên cứu lịch sử cổ đại, Maspéro cùng nhiều học giả người Pháp và các quốc gia phương Tây khác cùng thời kỳ, đi sâu nghiên cứu về lịch sử Việt Nam, không nằm ngoài mục đích phục vụ cho những chính sách của chính quyền đô hộ thực dân Pháp, trong bối cảnh muốn cai trị và đồng hóa người Việt, người Pháp đã thúc đẩy sự tìm hiểu về lịch sử Việt Nam, họ đã tiếp nối tinh thần bôi nhọ người Việt được thể hiện trong lịch sử Trung Hoa mà họ đã phát hiện khi khảo cứu sử sách, từ đó đề xuất những giả thuyết sai lệch về nguồn gốc của người Việt, nhằm bóp nghẹt lòng tự tôn dân tộc, tinh thần kháng chiến giành độc lập của người Việt, có thể ví dụ như giả thuyết về bàn chân Giao Chỉ, người Việt có nguồn gốc từ Trung Quốc.

Lập luận Hùng Vương chép nhầm từ Lạc Vương của Maspéro trực tiếp dẫn tới sự quy kết rằng Hùng Vương không có thực, là một sự sáng tạo lịch sử, nhiều học giả người Việt sau đó đã bị cuốn theo cuộc tranh luận này, nhưng các học giả đã không nhận ra, sự tranh luận của họ đang vô tình khiến Hùng Vương bị nghi ngờ, phủ nhận sự tồn tại và là một sự “sáng tạo lịch sử” của người Việt.

Cần phải tiếp cận bằng những góc nhìn khách quan sau khi nghiên cứu về Hùng Vương trong lịch sử:

Vấn đề thứ nhất, Hùng Vương là vua của người Việt, vậy nên cần phải xem cách người Việt tự nhận.

Vấn đề thứ hai, các sử gia Trung Hoa không thể sáng tạo nên một Hùng Vương hay Lạc Vương nào trong những ghi chép của mình từ hư vô, mà những ghi chép lịch sử luôn có những nguyên tắc cho các nhà chép sử. Để có thể chép về Hùng Vương, Văn Lang, họ phải tham khảo sử sách trước đó, thu thập thông tin từ người Việt, hoặc những người biết thông tin từ người Việt, sau đó mới chép lại vào trong sách với đầy đủ thông tin liên quan. Họ không thể sáng tạo nên một Hùng Vương hay Lạc Vương nào đó, mà chỉ có thể chép lại từ những thông tin về Hùng Vương được lưu truyền và ghi chép lại thành văn.

Trong các ghi chép ở trên, chúng ta có thể thấy được các sách phần lớn đều dẫn nguồn từ các sách đã có từ trước đó nhiều thế kỷ, ví dụ như thông tin về Văn Lang trong Thái Bình Ngự Lãm thời Tống được chép từ Phương Dư Chí đã có từ trước đó, các sách Thái Bình Quảng Ký, Cựu Đường Thư chép về Hùng Vương cũng dẫn từ sách Nam Việt chí đã có từ thời Lưu Tống (420 – 479 SCN). Các sách đã được dẫn có thể cũng đã tham khảo những thông tin từ các sách đã có từ trước đó, thời điểm các sách xuất hiện không đồng nghĩa với thông tin trong các sách đó ở thời điểm đó mới xuất hiện, mà có thể đã có từ trước nhưng đã bị thất truyền.

Đó chính là cách tiếp cận mà dường như Maspéro hay nhiều học giả khác đã bỏ qua, bối cảnh lịch sử của người Việt trước khi giành lại được độc lập, là gần 1000 năm tồn tại dưới sự cai trị của người Hán, dưới bối cảnh đó, thì những ghi chép lịch sử không thể tồn tại, vì vậy, để lưu giữ lại lịch sử của mình, người Việt đưa nó trở thành những lưu truyền dưới dạng truyền thuyết ngắn gọn, được truyền khẩu từ thế hệ này qua thế hệ khác.

Truyền thống truyền khẩu trên thế giới, vốn cũng được xem là có giá trị, theo John Miles Foley, viết cho từ điển Britannica (Foley, 2019), thì truyền khẩu là hiện tượng xuất hiện từ rất sớm, từ khi con người chưa có chữ viết, khi chữ viết xuất hiện, hình thức này không biến mất, và vẫn là phương thức thống trị cho tới tận ngày nay, dù tỉ lệ người biết chữ ngày càng tăng. Sử thi Iliad và Odyssey của Hy Lạp cổ đại, Kinh thánh của Judeo-Christian, sử thi Gilgamesh của người Lưỡng Hà đều có nguồn gốc từ truyền thống truyền khẩu, sau đó mới được chép lại thành văn. Sự lưu truyền thông qua hình thức truyền miệng là một cách thức rất quan trọng để lưu giữ lại lịch sử, văn hóa của một cộng đồng.

Dưới những cách tiếp cận đó, thì những truyền thuyết của người Việt về Hùng Vương, Văn Lang, hay về các nhân vật thời kỳ này, chính là “lịch sử truyền miệng”, được lưu truyền thông qua hình thức truyền miệng, để giữ gìn và bảo lưu lịch sử, văn hóa của dân tộc qua nhiều thế hệ. Tới thời kỳ nhà Trần, thì các truyện được chép thành văn vào sách Lĩnh Nam chích quái, cũng tương tự như các trường hợp đã được chúng tôi dẫn ở trên.

Vì vậy, không thể nói rằng Lĩnh Nam chích quái, Đại Việt sử ký toàn thư đã sáng tạo nên Hùng Vương, Văn Lang, mà đó là “ký ức lịch sử” của người Việt được lưu giữ xuyên suốt thời kỳ Bắc thuộc, sau đó mới được ghi thành văn. Những ghi chép của người Trung Hoa chỉ có vai trò xác minh các thông tin lưu truyền của người Việt, không nên được xem là “ngọn nguồn”, từ đó kết luận một cách chủ quan rằng người Việt đã “sáng tạo” nên Hùng Vương và Văn Lang.

3. Hùng Vương, Văn Lang và Giao Chỉ:

3.1. Hùng Vương làm chủ đất Giao Chỉ và lãnh thổ của nước Văn Lang:

Những tư liệu khảo cứu ở các phần trước đã khẳng định sự tồn tại của nước Văn Lang do Hùng Vương làm chủ. Những ghi chép về Hùng Vương đều cho thấy Hùng Vương làm chủ đất Giao Chỉ. Giao Chỉ là một khái niệm được chép nhiều trong lịch sử Trung Hoa, xuất hiện từ rất sớm, sớm nhất là trong thời kỳ Chiến Quốc. Các ghi chép về Giao Chỉ đều nhắc về một nước Giao Chỉ, đất Giao Chỉ nằm ở phía Nam của các triều đại Hạ, Thương, lúc ấy mới chỉ có lãnh thổ trong vùng đồng bằng sông Hoàng Hà.

Lã Thị Xuân Thu, sách được hoàn thành vào thời nhà Tần do Lã Bất Vy chủ biên có chép về “nước Giao Chỉ”.

Lã Thị Xuân Thu, thiên Thận Hành Luận chép về lãnh thổ vua Vũ của nhà Hạ: “南至交阯孫樸續樠之國丹粟漆樹沸水漂漂九陽之山羽人裸民之處” – “Phía Nam tới các nước Giao Chỉ, Tốn Bốc, Tục Man, tới các núi Đơn Túc, Thế Thọ, Phí Thủy, Phiêu Phiêu, Cửu Dương, xứ Vũ Nhân (người đeo lông vũ), Khỏa Dân, hương Bất Tử.” (Bản dịch của Quốc Bảo)

Ghi chép này của Lã Thị Xuân Thu đã cho thấy nước Giao Chỉ cùng với Tốn Bốc, Tục Man nằm ở phía Nam lãnh thổ của nhà Hạ, về lãnh thổ phía Nam, thì nhà Hạ khi ấy mới chỉ có lãnh thổ cơ bản nằm ở các vùng Sơn Tây, Hà Nam, Thiểm Tây, nên chưa trực tiếp tiếp giáp với Giao Chỉ, mà có thể còn tồn tại một số quốc gia đệm khác, Tốn Bốc, Tục Man có thể nằm trong số đó. Nước Giao Chỉ nằm ở phía Nam địa bàn của nhà Hạ, cách biệt với nhà Hạ với một số quốc gia nằm trong vùng đệm, lãnh thổ của Giao Chỉ cũng không quá xa so với nhà Hạ, có thể nằm ở vùng Dương Tử hoặc quá Dương Tử một chút về phía Bắc.

Ghi chép này cũng gần tương tự như những ghi chép của người Việt về lãnh thổ của nước Văn Lang: “Đông giáp biển Nam Hải, Tây đến Ba Thục, Bắc đến hồ Động Đình, Nam giáp nước Hồ Tôn” (Đại Việt sử ký toàn thư); “Đông giáp Nam Hải, Tây đến Ba Thục, Bắc đến Động Đình hồ, Nam đến nước Hồ Tôn Tinh” (Lĩnh Nam chích quái). Nước Văn Lang có lãnh thổ từ vùng hồ Động Đình về tới Việt Nam, “nước Giao Chỉ” cũng nằm từ địa bàn phía Nam nhà Hạ (từ vùng Dương Tử) về phía Nam, Hùng Vương làm chủ đất Giao Chỉ này theo những ghi chép của Trung Hoa.

Trong nhiều ghi chép khác của Trung Hoa cũng xác nhận vị trí của Giao Chỉ nằm ở phía Nam của các triều đại Hạ, Thương khi ấy nằm ở vùng đồng bằng sông Hoàng Hà.

Hàn Phi Tử thiên Thập Quá chép: “臣聞昔者堯有天下,飯於土簋,飲於土鉶,其地南至交趾,北至幽都,東西至日月之所出入者,莫不賓服.” – “Ngày xưa vua Nghiêu có thiên hạ, ăn bằng bát đất (quỷ), uống bằng liễn đất (hình), địa giới phương Nam đến đất Giao Chỉ, phương Bắc đến đất U Đô, phương Đông, phương Tây đến tận nơi mặt trời lặn mọc, thảy đều phục tùng.” (Bản dịch của Trần Kinh Nghị)

Thuyết Uyển thời Tây Hán chép: “臣聞堯有天下,飯於土簋,啜於土鈃,其地南至交趾,北至幽都,東西至日所出入,莫不賓服.” – “Bề tôi nghe nói rằng vua Nghiêu làm chủ thiên hạ, ăn bằng bát đất, uống bằng liễn đất, địa giới phương Nam đến Giao Chỉ, phía Bắc đến U Đô, Đông, phía Tây đến nơi Mặt Trời mọc và lặn.

Khổng Tử Gia Ngữ, phần Ngũ Hoàng, thời Tây Hán chép về lãnh thổ của Đế Chuyên Húc nhà Hạ: “北至幽陵,南暨交趾,西扺流沙,東極蟠木.” – “Phía bắc tới U Lăng, phía nam tới Giao Chỉ, phía tây tới Lưu Sa, phía đông tới Bàn Mộc.

Hoài Nam Tử do Lưu An thời Tây Hán soạn, thiên Tu Vụ Huấn chép: “堯立孝慈仁愛,使民如子弟.西教沃民,東至黑齒,北撫幽都,南道交趾.” – “Vua Nghiêu lên làm vua, hiếu thảo, nhân từ, khiến dân chúng như con em. Phía Tây giáo hóa Ốc Dân, phía đông đến Hắc Xỉ, phía bắc vỗ về đất U Đô, phía nam thông Giao Chỉ.

Hoài Nam Tử do Lưu An thời Tây Hán soạn, thiên Thái Tộc Huấn chép: “紂之地,左東海,右流沙,前交趾,後幽都” – “Đất của Trụ, trái giáp Đông Hải, phải có sông Lưu Sa, phía trước Giao Chỉ, phía sau U Đô.

Từ những ghi chép lịch sử của Trung Quốc, có thể thấy được lãnh thổ của Giao Chỉ rất rộng, từ địa bàn giáp với nhà Hạ, nhà Thương trở về phía Nam. Qua thời gian, thì Giao Chỉ dần dần bị đẩy lùi về phía Nam, thu hẹp tương ứng theo lãnh thổ của quốc gia Văn Lang.

3.2. Giao trong tư liệu ngữ âm lịch sử:

Phục nguyên âm thượng cổ của Giao 交 đem lại kết quả khá thú vị. Phục nguyên theo (Ferlus, 2009b):

jiāo 交 <MC kæw <OC *kraw [k.raw]

Frederic Pain (Pain, 2008) đề xuất rằng *k(ə)ra:w có nghĩa là “con người”, có nguồn gốc từ ngôn ngữ Austroasiatic.

Trong tất cả các ghi chép được chúng tôi dẫn ở trên, từ Giao đều mang sắc thái nghĩa là vùng đất, tuy nhiên, cứ liệu ngôn ngữ học lại cho thấy nó mang sắc thái nghĩa chỉ người. Chúng tôi cho rằng trong lịch sử, có thể người Việt gọi vùng đất mình sinh sống là *kraw, sau đó lịch sử Trung Quốc cũng chép lại với sắc thái nghĩa tương tự. Từ từ gốc ban đầu được sử dụng chỉ đất, sau đó *kraw đã trở thành một từ chỉ tộc người liên quan tới vùng đất *kraw.

4. Kết luận:

Những bằng chứng lịch sử Trung Quốc đã chứng minh về sự tồn tại của quốc gia Văn Lang và thời kỳ Hùng Vương. Những ghi chép lịch sử của Trung Quốc đã khẳng định Hùng Vương làm chủ đất Giao Chỉ, lãnh thổ của nước Giao Chỉ hay đất Giao Chỉ trong lịch sử Trung Quốc nằm ở phía Nam của nhà Hạ và nhà Thương, các triều đại đầu tiên của Trung Quốc.

Như vậy, lãnh thổ của nước Văn Lang bao gồm dải đất từ vùng Dương Tử trở về phía Nam, tương ứng với địa bàn sinh sống của người Việt (hay Bách Việt, Dương Việt, Lạc Việt), giống như ghi chép của người Việt về lãnh thổ của quốc gia Văn Lang: phía Bắc tới hồ Động Đình, phía Tây tới Ba Thục, phía Nam giáp Hồ Tôn Tinh.

Vậy tại sao lịch sử Trung Quốc lại ít chép về nước Văn Lang và thời Hùng Vương, và lại chép ở những sách muộn như vậy? Có đủ cơ sở để khẳng định, người Trung Quốc biết rất rõ về sự tồn tại của một nước Văn Lang, của các vị vua Hùng, nhưng rất ít ghi chép lại, trong cả lịch sử của người Việt lẫn lịch sử của Trung Hoa, cũng đã nhắc về sự bang giao và chiến tranh của người Việt và các triều đại Hoa Hạ, nhưng họ thường cố ý chép lệch đi sự thực, ví dụ như trường hợp của Việt Thường, họ đã đẩy nước Việt Thường xuống phía Nam của Giao Chỉ, tức phủ nhận sự tồn tại của một nước Việt ở Giao Chỉ. Lý do không gì khác hơn, là để che giấu những sự kiện xâm chiếm đất đai của người Việt được thực hiện bởi các triều đại Hoa Hạ.

Đó là lý do tại sao lịch sử Trung Quốc lại ít ghi chép như vậy về Văn Lang, Hùng Vương hay quốc gia của người Việt. Nhưng những ghi chép rất hiếm hoi của họ, cũng đã chứng minh cho chúng ta thấy được sự tồn tại của Hùng Vương, Văn Lang, cũng chỉ ra lãnh thổ của quốc gia Văn Lang tiếp giáp ngay phía Nam của các triều đại Hạ, Thương của họ.

Lang Linh


Tài liệu tham khảo:

Ferlus, M. (2009). Formation of Ethnonyms in Southeast Asia.

Ferlus, M. (2011). Les Bǎiyuè 百越, ou les “pays des (horticulteurs/mangeurs de) tubercules.”

Foley, J. M. (2019). Oral tradition. In Encyclopedia Britannica. https://www.britannica.com/topic/oral-tradition

Kelley, L. C. (2012). The Biography of the Hồng Bàng Clan as a Medieval Vietnamese Invented Tradition. Journal of Vietnamese Studies, 7(2), 87–130. https://doi.org/10.1525/vs.2012.7.2.87

Maspéro, H. (1948). Nước Văn Lang. Nhà in Thời sự.

Pain, F. (2008). An Introduction to Thai Ethnonymy: Examples from Shan and Northern Thai. Journal of the American Oriental Society, 128(4), 641–662. JSTOR.

Phan, A. D. (2020). Khảo sát tên gọi Văn Lang trên cơ sở ngữ âm lịch sử. Tạp Chí Văn Hóa Nghệ An.

Schuessler, A. (2007). ABC etymological dictionary of old Chinese. University of Hawai’i Press.

Trần, T. D. (2017). Trao đổi thêm về từ nguyên của yếu tố “lạc (luò /)” trong tổ hợp “lạc việt (luòyuè 雒越).” Hội thảo Quốc tế ”Văn hóa tộc người Trung Quốc – ASEAN lần thứ 2 (The 2nd Chia-ASEAN Ethnic Cultural Forum), Quảng Tây.

Bình luận về bài viết này

Trang web này sử dụng Akismet để lọc thư rác. Tìm hiểu cách xử lý bình luận của bạn.