524. ☀ Khảo sử về quốc gia Văn Lang và thời kỳ Hùng Vương

Tìm hiểu về nguồn gốc dân tộc là một vấn đề có vai trò quan trọng, trải qua nhiều thăng trầm của lịch sử, khiến việc tìm hiểu nguồn gốc trở nên không dễ dàng, tuy nhiên rất cần được quan tâm nghiên cứu và làm rõ, hiện tại vẫn còn nhiều vấn đề về nguồn gốc dân tộc còn chưa được làm rõ, trong đó bao gồm cả thời kỳ Hùng Vương và quốc gia Văn Lang. Thời kỳ Hùng Vương đã từng có nhiều giả thuyết đề xuất rằng đây là một thời kỳ không tồn tại, được sáng tạo bởi các nho gia thời nhà Lê, quốc gia Văn Lang do các vua Hùng làm chủ còn được giả định rằng chỉ bao gồm miền Bắc Việt Nam, người Việt và cộng đồng tộc Việt hay “Bách Việt” trong lịch sử không liên quan tới người Việt tại miền Bắc Việt Nam. Tuy nhiên, các quan điểm này đều chưa dựa trên việc nghiên cứu và tìm hiểu kỹ lưỡng về vấn đề nguồn gốc dân tộc thông qua các phương tiện khoa học, cũng như khảo cứu kỹ lưỡng các tài liệu lịch sử.

Có nhiều bằng chứng ở các phương tiện nghiên cứu khoa học như di truyền, khảo cổ, văn hóa, ngôn ngữ, bên cạnh đó, các tài liệu lịch sử cũng góp phần chứng minh sự tồn tại của thời kỳ Hùng Vương và quốc gia Văn Lang, các bằng chứng khoa học về quốc gia chung của cộng đồng tộc Việt và thời kỳ Hùng Vương đã được chúng tôi khảo cứu ở một bài viết khác [1], ở bài viết này, chúng tôi sẽ tập trung vào các tài liệu lịch sử, tìm hiểu, khảo cứu các tài liệu lịch sử Việt Nam và Trung Hoa, từ đó tìm hiểu về sự tồn tại và cơ cấu tổ chức, văn hóa và sự biến động lãnh thổ của quốc gia Văn Lang trong từng thời kỳ, tìm hiểu về nguồn gốc, sự biến động lãnh thổ cũng như tổ chức của quốc gia này. Các tài liệu lịch sử là những cơ sở rất quan trọng để chúng ta thấy được một phần lịch sử của cộng đồng tộc Việt, cung cấp cho chúng ta những hiểu biết cơ bản về tổ chức của quốc gia Văn Lang trong thời kỳ Hùng Vương. Chúng ta sẽ thấy được rằng, bên cạnh các tài liệu lịch sử của người Việt, thì các tài liệu lịch sử của Trung Quốc cũng cho thấy sự tồn tại của thời kỳ Hùng Vương và quốc gia chung của cộng đồng tộc Việt, được gọi là nước Văn Lang.

I. Tổng hợp các tài liệu về các vị vua Hùng và nước Văn Lang:

1. Tài liệu lịch sử Trung Quốc:

a. Tài liệu lịch sử về các vị vua Hùng:

Các tài liệu lịch sử của Trung Quốc ghi chép khá nhiều về thời kỳ Hùng Vương, dưới hai tên gọi là Hùng Vương và Lạc Vương.

Các sách đầu tiên ghi chép về các vị vua Hùng và thời kỳ Hùng Vương dưới khái niệm Lạc Vương là vào thời kỳ Bắc Ngụy (thế kỷ 5 sau công nguyên), trong sách Thủy Kinh Chú của Lịch Đạo Nguyên Soạn, dẫn sách Giao Châu ngoại vực ký (thế kỷ 4 sau công nguyên), sau đó sách Sử Ký của Tư Mã Trinh nhắc lại từ sách Quảng Châu ký được viết vào thời nhà Tấn (thế kỷ 4 sau công nguyên). Sách Cựu Đường Thư (thế kỷ 9 sau công nguyên) là sách đầu tiên chép về các vị vua Hùng dưới cái tên Hùng Vương, sách này chép lại từ sách Nam Việt Chí (thế kỷ 4 sau công nguyên). Như vậy các vị vua Hùng và thời kỳ Hùng Vương được sách sử Trung Quốc chép lại khá sớm.

Thủy kinh chú, quyển 37, Diệp Du hà (Bắc Ngụy – Lịch Đạo Nguyên soạn) dẫn Giao châu ngoại vực kí chép: “交趾昔未有郡縣之時,土地有雒田,其田從潮水上下,民墾食其田,因名為雒民,設雒王、雒侯,主諸郡縣。” – “Đất Giao Chỉ ngày xưa khi chưa đặt thành quận huyện, đất đai có ruộng Lạc, dân làm ăn ở ruộng ấy theo nước thủy triều lên xuống, nhân đó có tên là dân Lạc, đặt ra Lạc VươngLạc Hầu để làm chủ các quận huyện, huyện phần nhiều có chức Lạc tướng, Lạc tướng đeo ấn đồng thao xanh.” [2]

Sử kí, quyển 113, Nam Việt liệt truyện, 53, Sách ẩn (Đường – Tư Mã Trinh soạn) dẫn Quảng châu kí chép: “《史記》卷百一十三南越列傳第五十三索隱引《廣州記》云:交趾有駱田,仰潮水上下,人食其田,名為駱人。有駱王、駱侯。諸縣自名為駱將,銅印青綬,即今之令長也。後蜀王子將兵討駱侯,自稱為安陽王,治封溪縣。後南越王尉他攻破安陽王,令二使典主交阯、九真二郡人。” – “Quận Giao Chỉ có ruộng Lạc, dân trông nước thủy triều lên xuống mà làm ăn ở ruộng ấy nên đặt tên là người Lạc. Có các chức Lạc VươngLạc hầu, các huyện tự đặt chức Lạc tướng đeo ấn đồng dải xanh, tức là chức Lệnh-Trưởng ngày nay vậy. Sau đó con vua Thục đem quân đánh Lạc Hầu, tự xưng là An Dương Vương, trị ở huyện Phong Khê. Sau nữa vua Nam Việt là Úy Tha đánh phá An Dương Vương, sai hai sứ giả điển chủ người hai quận Giao Chỉ-Cửu Chân.” [2]

Cựu Đường thư, (Hậu Tấn – Lưu Hú soạn, 945 SCN), quyển 41, Chí 21, Địa lí 4, dẫn Nam Việt chí (Lưu Tống 420 – 479) chép: “交趾之地,最為膏腴。舊有君長曰雄王,其佐曰雄侯。後蜀王將兵三萬討雄王,滅之。蜀以其子為安陽王,治交趾。其國地,在今平道縣東。其城九重,周九里,士庶蕃阜。尉佗在番禺,遣兵攻之。王有神弩,一發殺越軍萬人,趙佗乃與之和,仍以其子始為質。安陽王以媚珠妻之,子始得弩毀之。越兵至,乃殺安陽王,兼其地。” – “Đất quận Giao Chỉ rất là màu mỡ, ngày xưa có quân trưởng gọi là Hùng Vương, phụ tá là Hùng Hầu. Sau có vua Thục đem ba vạn lính đánh diệt Hùng Vương đi. Vua Thục nhân đó cho con mình làm An Dương Vương, trị đất Giao Chỉ. Đất nước ấy ở phía đông huyện Bình Đạo ngày nay. Thành nước ấy có chín vòng, chu vi chín dặm, dân chúng đông đúc. Úy Đà đóng đô ở thành Phiên Ngu phát binh sang đánh.Vương có nỏ thần bắn một phát giết một vạn quân Việt. Triệu Đà bèn hòa với vương, rồi sai con mình tên là Thủy làm con tin. An Dương Vương đem con gái tên là Mị Châu gả cho Thủy, Thủy thấy được nỏ thần bèn hủy đi. Kịp khi quân Việt đến liền giết An Dương Vương, chiếm cả nước ấy.” [2]

Sách Thái Bình quảng ký, thời Tống, dẫn Nam Việt chí (Lưu Tống, 420 – 479) khoảng thế kỷ V cũng có chép về các vị vua Hùng: ““交趾之地,頗為膏腴,從民居之,始知播植。厥土惟黑壤。厥氣惟雄。故今稱其田為雄田,其民為雄民。有君長,亦曰雄王;有輔佐焉,亦曰雄侯。分其地以為雄將。” – “Đất Giao Chỉ vốn màu mỡ, di dân tới sống ở đó, (dân) mới bắt đầu biết gieo trồng, đất vùng ấy đen xốp, khí đất hùng mạnh, cho nên gọi ruộng ấy là Hùng Điền, dân vùng ấy gọi là Hùng Dân. Quân trưởng gọi là Hùng Vương. Có phụ tá là Hùng Hầu, chia đất cho các Hùng Tướng.”

Các tài liệu này chép rất rõ và trực tiếp chứng minh về sự tồn tại của các vị vua Hùng và thời kỳ Hùng Vương. Khái niệm Lạc Vương ở các sách Sử Ký và Thủy Kinh Chú có thể các tác giả đã có đôi chút sự nhầm lẫn. Danh xưng Hùng Vương được các tài liệu Cựu Đường Thư và Thái Bình quảng ký chép lại từ Nam Việt chí ghi chép rõ là “Hùng Vương”, có niên đại tương đương với các tài liệu chép về “Lạc Vương”, tài liệu lịch sử Việt Nam cũng luôn chép là Hùng Vương, người Việt cũng luôn gọi các vị là Hùng Vương chứ không phải Lạc Vương. Dựa vào so sánh và đối chiếu các tài liệu chúng ta có thể xác định danh xưng của các vị vua Hùng là Hùng Vương chứ không phải Lạc Vương.

b. Tài liệu lịch sử ghi chép về nước Văn Lang và quốc gia chung của cộng đồng tộc Việt:

Các tài liệu lịch sử của Trung Quốc cũng chép khá nhiều và rõ ràng về quốc gia của cộng đồng tộc Việt. Giai đoạn đầu, thì quốc gia của cộng đồng tộc Việt được ghi chép lại dưới cái tên Giao Chỉ, sau đó là cái tên Văn Lang.

Hoài Nam Tử của Lưu An viết vào thời nhà Hán, trong thiên Tu vụ huấn viết: “Vua Nghiêu lên làm vua, hiếu từ nhân ái, khiến dân như con em, phương Tây dạy mán ốc dân, phương Đông đến mán Hắc xỉ, phương Bắc vỗ về đất U Đô, phương Nam thông nước Giao Chỉ. [3]

Lã Thị Xuân Thu do Lã Bất Vi soạn thời nhà Tần, trong thiên Thận hành luận, chép về lãnh thổ vua Vũ thời nhà Hạ: “南至交阯孫樸續樠之國丹粟漆樹沸水漂漂九陽之山羽人裸民之處” – “Phía nam đến các nước Giao Chỉ, Tôn Bốc, Tục Man, các núi Đan Túc, Tất Thụ, Phất Thủy, Phiêu Phiêu, Cửu Dương, các xứ Vũ Nhân, Khỏa Dân, hương Bất Tử.” [Bản dịch của Quốc Bảo]

Giai đoạn này thì lãnh thổ của người Hoa Hạ chỉ nằm tại vùng phía bắc Đông Á, nên lãnh thổ nước Giao Chỉ của người Việt được ghi lại trong các tài liệu lịch sử trên nằm ngay phía dưới lãnh thổ của nhà Hạ, tức là vùng Dương Tử trở về phía Nam.

Bên cạnh đó, sách Thông Điển của Đỗ Hữu 杜佑 thời Đường (801), phần Châu quận cũng ghi lại về quốc gia của tộc Việt qua các tư liệu thời cổ: “自嶺而南,當唐、虞、三代為蠻夷之國,是百越之地” – “Từ dải núi Ngũ Lĩnh về phía nam, vào thời Đường – Ngu, Tam Đại là nước của người Man Di, là đất của người Bách Việt .”. Sách này chú thêm: “或曰自交趾至於會稽七八千里,百越雜處.” – “Từ Giao Chỉ đến Cối Kê, bảy tám ngàn dặm, người Bách Việt xuất hiện khắp mọi nơi.”

Sách Thông Điển đã chép về quốc gia chung của cộng đồng tộc Việt, quốc gia này “đương thời Đường Ngu, Tam Đại”, có nghĩa tương đương với khái niệm Giao Chỉ mà chúng tôi đã dẫn ở trên, tức là từ Dương Tử về phía Nam, lãnh thổ này cũng tương ứng với lãnh thổ của quốc gia Văn Lang được các tài liệu lịch sử Việt Nam ghi chép. Tài liệu này còn chép thêm: “Từ Giao Chỉ đến Cối Kê, bảy tám ngàn dặm, người Bách Việt xuất hiện khắp mọi nơi“, chi tiết này cũng thể hiện vùng phân bố của các cư dân tộc Việt trong lãnh thổ của quốc gia chung của cộng đồng tộc Việt.

Tới thời Bắc Tống, thì tài liệu lịch sử Trung Quốc dựa trên các tài liệu cổ chép về quốc gia của cộng đồng tộc Việt dưới cái tên Văn Lang. Tên Văn Lang cũng là tên quốc gia chính thức của cộng đồng tộc Việt trong thời kỳ Hùng Vương được ghi lại trong Đại Việt Sử Ký Toàn Thư cũng như truyện họ Hồng Bàng.

Sách 太平御覽 Thái Bình Ngự Lãm, Bắc Tống (977 – 984). Chương Châu quận bộ thập bát 州郡部十八. Đoạn Lĩnh Nam Đạo 嶺南道. Nguyên văn:《方輿志》曰:峰州,承化郡。古文郎國,有文郎水。亦陸梁地。秦屬象郡。二漢屬交趾郡。吳分置新興郡。晉改為新昌。陳置興州。隋平陳,改為峰州;煬帝初,廢。唐復置峰州。” – Tạm dịch: “Phương Dư chí viết: Phong Châu tức quận Thừa Hóa. Xưa là nước Văn Lang, có sông Văn Lang. Cũng là đất Lục Lương. Thời Tần thuộc Tượng quận. Tây Hán và Đông Hán thuộc quận Giao Chỉ. Nhà Ngô chia ra xếp vào quận Tân Hưng. Tấn đổi thành Tân Xương. Nhà Trần (557-589) gọi là Hưng Châu. Tùy thay Trần, cải ra Phong Châu; từ những năm đầu Tùy Dạng Đế (604-618) thì bãi bỏ. Đường triều khôi phục đặt là Phong Châu. ” [4]

Sách Thái Bình Ngự Lãm ghi chép có điểm chưa chính xác, bởi thời kỳ nhà Tần thì miền Bắc Việt Nam chưa nội thuộc đất Tần, mà vùng này vẫn giữ được độc lập, cùng thời điểm là quốc gia Âu Lạc do An Dương Vương kế thừa vị vua Hùng cuối cùng lập nên. Sách Thái Bình Ngự Lãm cùng với các sách sử Việt Nam cho chúng ta thấy được sự tồn tại của nước Văn Lang, cái tên Văn Lang là tên chính thức của quốc gia chung của cộng đồng tộc Việt. Tới thời nhà Tần, thì lãnh thổ của quốc gia này thu hẹp lại, chỉ còn nằm miền Bắc Việt Nam, Văn Lang trong sách này tương đương với khái niệm quốc gia Âu Lạc do An Dương Vương lập nên cũng được ghi lại trong sử sách Trung Hoa. Phong Châu được chép trong tài liệu trên cũng là kinh đô của nước Văn Lang, nằm tại tỉnh Phú Thọ ngày nay. Nước Văn Lang được ghi chép muộn trong cổ sử Trung Hoa không có nghĩa là tới thời điểm đó mới xuất hiện nước Văn Lang, chúng ta cần sử dụng tài liệu liên ngành, của cả Việt Nam và Trung Quốc để xác định thời gian hình thành, việc xuất hiện Văn Lang trong cổ sử Trung Hoa cũng góp phần chứng minh sự tồn tại của quốc gia này.

2. Tài liệu lịch sử Việt Nam:

Về sách sử Việt Nam, chúng ta cần tìm hiểu dựa trên cách tiếp cận cơ bản: các tài liệu lịch sử của người Việt trước thời nhà Lê đều bị nhà Minh phá hủy, nên các tài liệu có thể có ghi chép về thời kỳ Hùng Vương trước đó đều đã không còn. Trong thời kỳ nhà Lê trở về sau, sách Đại Việt Sử Ký Toàn Thư là sách đầu tiên ghi chép về các vị vua Hùng và quốc gia Văn Lang, nhưng không đồng nghĩa tới thời điểm đó các vị vua Hùng mới được ghi chép trong lịch sử Việt Nam. Bên cạnh đó cũng có giả thuyết cho rằng sách Đại Việt sử ký toàn thư chép lại từ sách Lĩnh Nam chích quái, tuy nhiên cũng không đủ cơ sở để khẳng định giả thuyết này. Sách Lĩnh Nam chích quái có niên đại sớm hơn, tuy nhiên Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên có thể ghi chép về lịch sử người Việt thời tiền Bắc thuộc dựa trên tư liệu dã sử được truyền trong văn hóa dân gian trong thời Bắc thuộc và đầu thời tự chủ, không đủ cơ sở để cho rằng Đại Việt sử ký toàn thư chép lại về thời Hùng Vương theo sách Lĩnh Nam chích quái.

Con Lạc Long Quân (không rõ tên húy), đóng đô ở Phong Châu (nay là huyện Bạch Hạc). Hùng Vương lên ngôi, đặt quốc hiệu là Văn Lang (nước này đông giáp biển Nam Hải, tây đến Ba Thục, bắc đến hồ Động Đình, nam giáp nước Hồ Tôn, tức nước Chiêm Thành, nay là Quảng Nam), chia nước làm 15 bộ là: Giao Chỉ, Chu Diên, Vũ Ninh, Phúc Lộc, Việt Thường, Ninh Hải, Dương Tuyền, Lục Hải, Vũ Định, Hoài Hoan, Cửu Chân, Bình Văn, Tân Hưng, Cửu Đức; đều là đất thần thuộc của Hùng Vương; còn bộ gọi là Văn Lang là nơi vua đóng đô. Đặt tướng văn gọi là Lạc Hầu, tướng võ gọi là Lạc Tướng (chữ Lạc Tướng, sau chép sai là Hùng Tướng). Con trai vua gọi là Quan Lang, con gái vua gọi là Mị Nương. Quan coi việc gọi là Bồ Chính, đời đời cha truyền con nối, gọi là phụ đạo. Vua các đời đều gọi là Hùng Vương.“ [5]

Bên cạnh Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, thì Việt Sử Lược cũng có chép về thời kỳ Hùng Vương, tuy sách đã bị Tiền Hy Tộ, một học giả nhà Thanh biên tập, sửa đổi nhiều chi tiết, như việc sửa tên sách từ Đại Việt sử lược thành Việt sử lược, và Tiền Hy Tộ đã viết lệch một nét để chữ Hùng 䧺 thành chữ Đối 碓 (cối dã gạo), trong khi thực tế thì chữ Hùng gốc có ý nghĩa hoàn toàn khác (theo Khang Hy Tự Điển: 䧺: (字彙補) 與雄同”. Tức là 雄 = 䧺 = Hùng), nhưng sách cũng đã cho chúng ta thấy được người Việt thời kỳ nhà Trần cũng đã xác nhận về sự tồn tại của thời kỳ Hùng Vương.

II. Tìm hiểu về thời kỳ Hùng Vương dựa trên các tài liệu lịch sử Trung Hoa và Việt Nam:

1. Quốc gia của cộng đồng tộc Việt:

Từ các tài liệu lịch sử được chúng tôi dẫn ở phần trên, bên cạnh tài liệu lịch sử của Việt Nam, chúng ta thấy được các tài liệu lịch sử Trung Quốc trực tiếp xác nhận sự tồn tại của thời kỳ Hùng Vương và quốc gia của cộng đồng tộc Việt. Các tài liệu này cũng cung cấp cho chúng ta những thông tin rất quan trọng để có thể nhìn nhận một cách cơ bản về thời kỳ này.

Về quốc gia của cộng đồng tộc Việt, chúng ta thấy các tài liệu lịch sử Trung Quốc ghi chép sớm nhất dưới khái niệm Giao Chỉ, vào thời Tần, Hán, thì các sách Hoài Nam Tử, Lã Thị Xuân Thu có chép về nước Giao Chỉ cùng thời với nhà Hạ. Thời điểm này tương ứng với văn hóa Thạch Gia Hà trong vùng trung lưu Dương Tử, có niên đại vào khoảng 2500-2000 năm TCN, cư dân tộc Việt ở thời điểm này vẫn chưa di cư về phía Nam theo các nghiên cứu di truyền [6][7]. Quốc gia “Giao Chỉ” thời điểm đó cũng tương ứng với quốc gia của tộc Việt tại văn hóa Thạch Gia Hà trong vùng Dương Tử, tài liệu khảo cổ đã chứng minh tại văn hóa Thạch Gia Hà đã xuất hiện một nhà nước phát triển. [8][9]

Bên cạnh đó, khái niệm Giao Chỉ được sử dụng trực tiếp để chỉ người Việt trong các giai đoạn, và có sự dịch chuyển dần về phía Nam theo sự thu hẹp lãnh thổ của quốc gia tộc Việt, không có bằng chứng nào cho thấy khái niệm Giao Chỉ được sử dụng để chỉ một tộc người khác, mà nó chỉ được sử dụng để chỉ người Việt. Giao Chỉ có âm phục nguyên là kraw, [10] là một từ trong ngôn ngữ Nam Á được sử dụng để chỉ vùng đất, người Hoa Hạ ký âm thành chữ Giao, chính vì vậy Giao Chỉ cũng là từ được sử dụng để chỉ vùng đất của người Việt.

Quốc gia của người Việt trong thời kỳ này có thể chưa có tên Văn Lang, mà vẫn còn tên là Xích Quỷ như trong chính sử và huyền sử đã ghi lại. Thời kỳ trước quốc gia Văn Lang, thì quốc gia của người Việt có trung tâm ở vùng hạ lưu Dương Tử với văn hóa Lương Chử, chính là quốc gia Xích Quỷ mà Đại Việt Sử Ký Toàn Thư và truyện họ Hồng Bàng đã ghi lại, tại văn hóa Lương Chử cũng đã chứng minh có tồn tại một nhà nước phát triển [11][12][13][14].

Tới giai đoạn 4000 năm trước, tộc Việt di cư về phía Nam do hạn hán tại vùng Dương Tử [15], các nghiên cứu di truyền đã xác định dòng di cư ở thời điểm này. [6][7]. Tầng lớp cao nhất trong cộng đồng tộc Việt di cư về miền Bắc Việt Nam, hình thành nên văn hóa Phùng Nguyên, đây cũng là thời điểm các con của Cha Lạc Long Quân và Mẹ Âu Cơ lên ngôi, trở thành các vị vua Hùng, khởi đầu thời kỳ Hùng Vương và làm chủ nước Văn Lang. Các tài liệu lịch sử cũng cho chúng ta thấy sự tồn tại một quốc gia lớn trong thời kỳ này.

Lãnh thổ của quốc gia Văn Lang theo các tài liệu lịch sử cũng được thể hiện khá rõ ràng. Như sách Thông Điển có chép: “Từ dải núi Ngũ Lĩnh về phía nam, vào thời Đường Ngu, Tam đại là nước của người Man Di, là đất của người Bách Việt”, “Từ Giao Chỉ đến Cối Kê, bảy tám ngàn dặm, người Bách Việt xuất hiện khắp mọi nơi.”, như chúng tôi đã phân tích, sách Thông Điển chép “vào thời Đường Ngu, Tam Đại”, có nghĩa khái niệm này tương đương với khái niệm Giao Chỉ, lãnh thổ của người Việt nằm trong địa bàn từ vùng Dương Tử về phía Nam, tương đương với địa bàn sinh sống của người Việt. Sau giai đoạn này, lãnh thổ của người Việt theo từng thời kỳ sẽ có sự thu hẹp dần, nên việc ghi chép về lãnh thổ của quốc gia tộc Việt sẽ trở nên khá tương đối, chúng ta cần xét trong bối cảnh lịch sử từng thời điểm để xác định chính xác lãnh thổ của nước Văn Lang là ở đâu.

Trong giai đoạn cực thịnh nhất, thì quốc gia chung của cộng đồng tộc Việt như trong sách Đại Việt Sử Ký Toàn Thư đã chép, là đông giáp biển Nam Hải, tây đến Ba Thục, bắc đến hồ Động Đình, nam giáp nước Hồ Tôn, cũng tương ứng với địa bàn phân bố của cư dân tộc Việt: “từ Giao Chỉ đến Cối Kê”, “là đất của người Bách Việt “, đây là “nước của người Man Di”, từ đó chúng ta thấy quốc gia của cộng đồng tộc Việt cũng chính là quốc gia Văn Lang của các vua Hùng dựa trên các tài liệu lịch sử, cộng đồng Bách Việt như vậy cũng thuộc quốc gia Văn Lang, chứ không phải độc lập với quốc gia này.

2. Tổ chức của quốc gia Văn Lang:

Vậy quốc gia này có tổ chức như thế nào? Các tài liệu lịch sử ở trên cùng với truyện họ Hồng Bàng cũng cho chúng ta thấy được một tổ chức cơ bản của quốc gia Văn Lang. Cũng cần nói qua một chút, truyện họ Hồng Bàng cho chúng ta thấy sự chính xác trong các chi tiết cốt lõi với các nghiên cứu di truyền và khảo cổ học [16], bên cạnh đó các tư liệu về tổ chức của quốc gia Văn Lang trong truyện họ Hồng Bàng cũng đồng thuận với các tài liệu lịch sử Trung Quốc, vì vậy nên kết hợp với các tài liệu Trung Quốc và sách Đại Việt Sử Ký Toàn Thư, truyện họ Hồng Bàng sẽ cung cấp cho chúng ta những thông tin quan trọng về tổ chức của quốc gia Văn Lang.

Tầng lớp cao nhất trong tổ chức của nước Văn Lang là các vị vua Hùng, các vị vua Hùng “đời đời cha truyền, con nối”, có nghĩa theo chế độ phụ hệ, tất cả các đời đều xưng là Hùng Vương không đổi. Ở tầng lớp thấp hơn, các tài liệu lịch sử Trung Hoa và truyện họ Hồng Bàng đều cho thấy các vị vua Hùng có phụ tá là các Lạc Hầu, Lạc Tướng, theo truyện họ Hồng Bàng thì vua Hùng “sai các em phân trị, đặt em thứ làm tướng võ, tướng văn; tướng văn gọi là Lạc Hầu, tướng võ gọi là Lạc Tướng”, có nghĩa các Lạc Tướng và Lạc Hầu là dòng dõi của các vua Hùng. Về vai trò, thì Lạc Hầu là quan văn, đảm nhận việc chính trị dưới sự điều hành của các vua Hùng, còn Lạc Tướng là quan võ, đảm nhận việc quân sự, mỗi quận huyện, mỗi vùng sẽ có các Lạc Tướng cai quản, các đời Lạc Tướng cũng đời đời cha truyền, con nối. Các sách Thủy Kinh Chú và Sử kí đều chép “Lạc tướng đeo ấn đồng thao xanh“, có nghĩa các Lạc Tướng có thực quyền, quản lý và điều hành các quận huyện dưới sự ủy quyền của các vị vua Hùng.

Trong chi tiết trên chúng ta cũng thấy được tổ chức của quốc gia Văn Lang là một hình thức phong kiến, các vùng đất được vua Hùng giao cho các em cai quản, các Lạc Tướng có quyền quản lý vĩnh viễn các vùng đất được phân phong, kế thừa theo hình thức cha truyền con nối, cách thức tổ chức này tương tự như nhà Chu phong đất cho các quý tộc triều đại mình, tuy nhiên chế độ của người Việt có sự kế thừa và tồn tại rất bền vững, về người Hoa Hạ, thì sau đó các vùng đất này tách ra thành các nước chư hầu nhà Chu. Một chi tiết khác trong truyện Đổng Thiên Vương cũng cho chúng ta thấy hình thức phong kiến cho những người có công lao đánh thắng giặc ngoại xâm, cũng tương tự như hình thức cấp đất cho các tướng lĩnh của các triều đại tự chủ sau này: “có ai dẹp được giặc thì phong cho tước ấp”. [17]. Các vua Hùng duy trì quyền lực và điều động quân đội các vùng bằng những chiếc Nha chương ngọc, xuất hiện trong thời văn hóa Phùng Nguyên.

Nha chương tìm thấy tại văn hóa Phùng Nguyên. [Nguồn: Bảo tàng Đền Hùng, dẫn; Bảo tàng lịch sử Việt Nam, dẫn.

Theo truyện họ Hồng Bàng, thì còn một số tầng lớp và chức vụ khác trong tổ chức của quốc gia Văn Lang: “quan Hữu Ty gọi là Bồ Chính, thần bộc nô lệ gọi là nô tỳ” [16], bên cạnh các tầng lớp chủ chốt là Lạc Hầu, Lạc Tướng thì còn có các quan Hữu Ty gọi là Bồ Chính, và quốc gia này cũng tồn tại tầng lớp nô tỳ, là tầng lớp thấp nhất trong xã hội người Việt. Như vậy qua các tài liệu này chúng ta có thể thấy được 4 tầng lớp của xã hội thời kỳ này: hoàng tộc, quý tộc và quan lại, dân thường và cuối cùng là tầng lớp nô tỳ, nô lệ.

Thời kỳ đầu Hán thuộc, thì người Hán vẫn giữ nguyên chế độ Lạc Tướng của người Việt. Tới thời hai bà Trưng, thì theo sử chép, hai bà Trưng là con của một Lạc Tướng huyện Mê Linh, bà Trưng Trắc cưới người con trai Lạc Tướng huyện Chu Diên tên Thi Sách. Khi quốc gia Lĩnh Nam của hai bà Trưng thất bại trong việc bảo vệ nền độc lập, thì Mã Viện đã bắt trên 300 cừ suý (tướng lĩnh và tầng lớp quý tộc) người Việt đưa về Trung Quốc. Đây là những bằng chứng rõ ràng chứng minh sự tồn tại tầng lớp quý tộc của người Việt trong lịch sử, và tầng lớp quý tộc này có số lượng đông, có vai trò rất quan trọng trước khi người Việt thất bại trước người Hán. Quyền lực của hai bà Trưng và chồng bà Trưng Trắc là Thi Sách trong lịch sử cho chúng ta thấy thực quyền và sự ảnh hưởng rất lớn của các Lạc Tướng trong thời kỳ Hùng Vương.

Thủy kinh chú dẫn Giao Châu ngoại vực kí chép: “Vua nước (Nam) Việt sai hai sứ giả trông coi dân hai quận Giao Chỉ, Cửu Chân, sau nhà Hán sai Phục ba tướng quân là Lộ Bác Đức đánh vua nước Việt, Lộ tướng quân đến quận Hợp Phố, vua nước Việt sai hai sứ giả đem một trăm con bò, một ngàn vò rượu cùng sổ hộ khẩu dân hai quận đến gặp Lộ tướng quân, bèn bái hai sứ giả làm Thái thú của hai quận Giao Chỉ, Cửu Chân, các Lạc tướng vẫn trị dân như cũ. Sở trị của quận Giao Chỉ và châu vốn ở đấy vậy (huyện Mi Linh). Đặt tên châu là châu Giao. Sau có con trai của Lạc tướng huyện Chu Diên tên là Thi lấy con gái của Lạc tướng huyện Mi Linh tên là Trưng Trắc làm vợ. Trắc là người gan dũng, giúp Thi nổi dậy, đánh phá châu quận, bắt các Lạc tướng theo phục, đều thuộc quyền Trưng Trắc, làm vua, đóng đô ở huyện Mi Linh, thu thuế của dân hai quận Giao Chỉ, Cửu Chân được hai năm. Sau nhà Hán sai Phục ba tướng quân là Mã Viện đánh Trắc-Thi, chạy vào khe hang Kim, ba năm mới bắt được. Bấy giờ quận Thục phía tây cũng đem binh cùng đánh bọn Trắc, dẹp yên cả các quận huyện, đặt ra quan Lệnh, Trưởng ở đấy.”

Quốc gia Văn Lang thời kỳ đó, theo ghi chép của truyện họ Hồng Bàng, chúng ta cũng thấy được sự tồn tại của những vùng phiên thuộc: những vùng “xưng thần (được gọi) là khôi”. Chi tiết này cũng phù hợp với các tư liệu cho thấy các vùng Đông Nam Á lục địa và hải đảo đã tới miền Bắc Việt Nam để xin trống đồng về để sử dụng, quyền lực, tính trung tâm, hành động “xưng thần” của các quốc gia Đông Nam Á với các vua Hùng được thể hiện rõ trong các tài liệu khảo cổ. [18]

Thời kỳ này cũng có tầng lớp hoàng tộc, con trai vua được gọi là Quan Lang, con gái vua được gọi là Mỵ Nương, trong thời kỳ này qua nhiều câu chuyện thời Hùng Vương như trong truyện Lang Liêu, truyện Chử Đồng Tử [17], thì Lang Liêu, một trong các Quan Lang, là con của một trong những hoàng hậu của các vị vua Hùng. Qua tư liệu này chúng ta thấy được rõ ràng đã tồn tại một chế độ đa thê trong tầng lớp hoàng tộc.

Tổ chức hành chính thời Hùng Vương cũng được thể hiện rất rõ thông qua các tài liệu ngôn ngữ học về địa danh. Theo khảo cứu của Gs Lê Trọng Khánh, thì Sách là đơn vị hành chính tương đương với xã, phường ngày nay, lớn hơn Sách có Chiềng, có lẽ tương đương với cấp huyện. Tới thời Hán thuộc, đặc biệt là sau cuộc khởi nghĩa hai bà Trưng, thì người Hán buộc người Việt phải theo các cấp hành chính là huyện, xã, thay thế các đơn vị hành chính của người Việt, tuy nhiên tới thời Đinh Bộ Lĩnh, và thời Lê vẫn tìm thấy Sách. [19]

“Thế kỷ thứ X, lịch sử còn ghi rõ Đinh Bộ Lĩnh chiếm cứ một vùng Sách (làng xã), đóng căn cứ ở Sách Tế Áo, Hoa Lư (Gia Viễn, Ninh Bình). Chú của Đinh Bộ Lĩnh là Đinh Dự chiếm cứ Sách Bông. Như vậy thời Đinh Bộ Lĩnh động Hoa Lư vẫn tồn tại Sách. Đến thời Lê qua thống kê còn có trên 500 Sách trong cả nước.” [19]

Tìm hiểu thêm về các cấp hành chính cổ thời Hùng Vương dựa trên một số tài liệu, thì chúng ta thấy được dưới Sách, là chạ, tương đương với làng chúng ta vẫn sử dụng ngày nay, như trong câu “chiềng làng chiềng chạ” (chiềng ở đây tương đương với trình, trong văn học dân gian Việt Nam cũng có câu “trình làng trình chạ”), từ làng có gốc là lang, người Mường cũng có tổ chức làng, văn hóa Mường vẫn còn tồn tại nhà Lang, có vai trò gần giống như Đình Làng của người Việt.

Như vậy chúng ta có thể thấy được một phần cấu trúc xã hội của người Việt thời Hùng Vương đã khá hoàn thiện trước khi người Hán xâm lược và thực hiện các chính sách đô hộ, đồng hóa. Các Lạc Tướng quản lý các huyện, có lẽ là quản lý các Chiềng, trong tổ chức thấp hơn, thì trong Chiềng có Sách, trong sách có làng – chạ.

Về thành quách, thì sách Nam Việt chí chép về thành của quốc gia Văn Lang: “Thành nước ấy có chín vòng, chu vi chín dặm, dân chúng đông đúc“, như vậy thời điểm này ở vùng Phong Châu và miền Bắc Việt Nam đã tồn tại một đô thành đông đúc dân cư. Dân số của miền Bắc Việt Nam vào cuối thế kỷ I TCN vẫn còn rất đông đúc, như sách Tiền Hán Thư, phần Địa Lý Chí chép về dân số ở các vùng ở Việt Nam: Giao Chỉ quận: 92.440 hộ, 746.237 khẩu, Cửu Chân quận: 35.742 hộ, 166.113 khẩu, Nhật Nam quận: 15.460 hộ, 69.485 khẩu, tổng cộng dân số của miền Bắc Việt Nam và vùng trung bộ Việt Nam là khoảng gần 1 triệu người, như vậy chúng ta thấy được sự trù mật của dân số tại miền Bắc Việt Nam trong giai đoạn đầu thời Bắc thuộc, sau thời Hùng Vương không lâu.

Về vấn đề số đời của thời Hùng Vương, chúng tôi cho rằng một số tác giả có phần chủ quan khi lấy thời gian tồn tại của họ Hồng Bàng để chia ra cho con số 18 đời, từ đó cho rằng thời Hùng Vương không tồn tại do không có ai thọ tới 145 tuổi, tuy nhiên con số 18 là một con số có ý nghĩa đẹp và quan trọng, không hẳn là một con số có ý nghĩa chỉ thực tế số đời, 18 = 9x2, 9 = 3x3, đây đều là các con số có ý nghĩa quan trọng với người Việt, tư duy số lẻ là tư duy đặc trưng của người Việt, như trong truyện Đổng Thiên Vương có chép về “một con ngựa sắt cao mười tám thước”, Nam Việt chí chép “thành nước ấy có chín vòng, chu vi chín dặm“, các yếu tố văn hóa với tư duy số lẻ như Tam Phủ (Trời – Đất – Nước), Sơn Tinh – Thủy Tinh – Mỵ Nương, Trầu – Cau – Vôi. Vì vậy chúng ta nên hiểu con số 18 đời như một con số đẹp, có tính đại diện và linh thiêng, hơn là một con số chỉ thực tế số đời Hùng Vương. Sử dụng tư duy lý tính và chủ quan để phủ nhận sự tồn tại của thời kỳ Hùng Vương dựa trên việc chia số năm tồn tại của họ Hồng Bàng cho 18 đời vua Hùng, mà không dựa vào các tài liệu lịch sử, khảo cổ và di truyền là không thực sự phù hợp.

Dựa vào các tài liệu lịch sử, tổ chức của quốc gia Văn Lang chúng ta có thể tạm kết luận chưa phải tập quyền, mà đang còn theo hình thức phong kiến phân quyền, mỗi nơi có một Lạc Tướng quản lý dưới sự ủy quyền của các vị vua Hùng, có sự độc lập nhất định nhưng các vùng vẫn tập trung dưới quyền quản lý cao nhất các vị vua Hùng. Tổ chức của quốc gia này cũng cho thấy sự tồn tại của chế độ hành chính khá hoàn thiện, xã hội phân chia nhiều tầng lớp: tầng lớp hoàng tộc, quý tộc, dân thường và tầng lớp nô tỳ, quốc gia có các vùng phiên thuộc, cũng như có tồn tại dân cư đông đúc, có đô thành, đó là những bằng chứng khá quan trọng cho chúng ta thấy được một phần tổ chức của quốc gia Văn Lang trong thời kỳ Hùng Vương.

3. Sự biến động lãnh thổ của quốc gia Văn Lang:

Trong các tài liệu lịch sử cũng cho chúng ta thấy sự biến động lãnh thổ trong từng thời kỳ của quốc gia Văn Lang, bắt đầu từ thời điểm chiến tranh với nhà Thương tới cuộc chiến với nhà Sở tại các vùng Hồ Nam, Vân Nam.

Đầu tiên là cuộc chiến tranh với nhà Thương, được ghi lại trong truyện tích Thánh Gióng, theo đó người Việt đã có sự xung đột với nhà Thương, quốc gia này đánh chiếm xuống vùng đất của người Việt, truyền thuyết của người Việt có ghi khá rõ về sự kiện này.

“Đời Hùng Vương thứ ba, thiên hạ thái bình, dân vật đầy đủ, Ân Vương lấy sự thiếu lễ triều cống, giả đi tuần thú để xâm chiếm nước ta. Hùng Vương nghe được mới triệu quần thần hỏi về kế hoạch đánh hay giữ.”…, “Vừa đúng ba năm, biên binh cáo cấp có quân Ân sang, Hùng Vương y theo lời nói của lão nhân, sai sứ đi khắp thiên hạ để tìm người dẹp giặc.” [17]

Cuộc chiến này cũng được các tài liệu khảo cổ hỗ trợ, [1] sau đó nhà Thương chiếm được vùng Hồ Bắc và hạ lưu Dương Tử, sau nhà Chu phân phong cho chư hầu trở thành các quốc gia Sở (Hồ Bắc), Ngô (Giang Tô), Việt (Chiết Giang), thời điểm đó phong tục của các vùng này vẫn là phong tục tộc Việt như chúng tôi đã khảo cứu ở một bài viết khác. [20]

Thời điểm sau này, thì quốc gia Văn Lang bao gồm các vùng là Hồ Nam, Quý Châu, Vân Nam, Quảng Đông, Quảng Tây và miền Bắc Việt Nam. Tới khoảng TK 4 – TK3 TCN, nhà Sở đánh xuống các vùng Hồ Nam, Vân Nam của tộc Việt, các tài liệu lịch sử ghi khá rõ về các sự kiện này.

Về cuộc chiến tranh xâm lược xuống vùng Hồ Nam của nước Sở, Chiến Quốc sách, khi viết về Ngô Khởi (440 TCN – 381 TCN) đã ghi lại: 南攻楊越,北並陳、蔡… – “Nam đánh Dương Việt, Bắc thôn tính Trần, Sái…“. [4]

Chiến Quốc sách khi ghi về cuộc chiến với tộc Việt, họ ghi bằng chữ “đánh”, chứ không dùng chữ “thôn tính” như với các quốc gia Trần, Sái, có nghĩa họ chiếm được vùng đất Hồ Nam nhưng đất đai của người Việt vẫn còn rộng, quốc gia Văn Lang vẫn chưa bị tiêu diệt. Từ thời Ngô Khởi, nước Sở đã trở nên rất hùng mạnh, sau thời Ngô Khởi gần 50 năm, họ đã diệt nước Việt (khi đó đã thôn tính cả nước Ngô) vào năm 334 TCN, mở rộng bờ cõi ra vùng hạ lưu Dương Tử. Nước Sở đã chiếm hết vùng hạ lưu sông Dương Tử rộng lớn, nhưng vẫn không thôn tính được nước Văn Lang (Dương Việt), chứng tỏ nước Văn Lang cũng là một quốc gia hùng mạnh và phát triển không thua kém nước Sở. Nhưng sau đó nước Sở cũng đã chiếm được vùng Hồ Nam. [4]

Sau đó tướng Sở Trang Kiểu đã đánh xuống vùng Vân Nam, nước Tần sau đó cũng nhanh chóng chiếm vùng Quý Châu khi họ chiếm thành công được các nước Ba Thục ở phía Tây.

Sử Ký, Tây Nam di liệt truyện, Tư Mã Thiên chép: “Lúc trước vào thời Uy Vương nước Sở, sai tướng quân tên là Trang Cược (Trang Kiểu) đem quân ngược theo sông Giang đánh lấy các nước từ quận Ba-Thục-Kiềm Trung về phía tây. Trang Cược vốn là dòng dõi của Trang Vương nước Sở. Cược đến đầm Điền, đầm rộng ba trăm dặm, bên đầm là đất bằng màu mỡ rộng mấy ngàn dặm, bèn đem quân uy hiếp lấy gộp vào nước Sở. Muốn về báo tin, nhưng gặp lúc quân nước Tần đánh lấy các quận Ba-Kiềm Trung của nước Sở, đường bị nghẽn chẳng thông, do đó quay lại, làm vua của người nước Điền, đổi áo theo thói của người ở đấy để làm kẻ đứng đầu.” [21]

Tới thời nhà Tần, thì sau khi triều đại này thống nhất được bắc Đông Á, họ đã tổ chức một đội quân hùng hậu đánh chiếm xuống vùng đất còn lại của nước Văn Lang là vùng Lưỡng Quảng và miền Bắc Việt Nam. Quốc gia Văn Lang thời kỳ này đã đổi chủ khi An Dương Vương, một thủ lĩnh trong quốc gia Văn Lang đã giành ngôi của vua Hùng cuối cùng. Ông đã kế thừa quốc gia Văn Lang, lãnh đạo người Việt trong cuộc chiến chống xâm lược của nhà Tần. Tuy nhiên sau đó thì nhà Tần đã chiếm được vùng Lưỡng Quảng, An Dương Vương lui về miền Bắc Việt Nam lập nên nước Âu Lạc. Vấn đề này bạn đọc có thể tìm hiểu qua bài viết khác của chúng tôi. [22]

Như vậy chúng ta có thể thấy khá rõ ràng sự tồn tại của quốc gia Văn Lang, các cuộc chiến tranh xâm lược và chiếm đóng của các triều đại Hoa Hạ, lãnh thổ quốc gia này thu hẹp dần cho tới khi mất hẳn vào thời An Dương Vương.

Sau đó, quốc gia của cộng đồng tộc Việt một lần nữa trở lại, với cuộc khởi nghĩa hai Bà Trưng, hai Bà chiếm được 65 thành, lập nên nước Lĩnh Nam trong vùng Lưỡng Quảng và miền Bắc Việt Nam. Cuộc khởi nghĩa này cũng cho chúng ta thấy rằng Việt Nam vốn là trung tâm của cộng đồng tộc Việt, nên cuộc khởi nghĩa của hai Bà đã nhận được sự hưởng ứng của người Việt tại các vùng phía Nam dãy Ngũ Lĩnh.

4. Ký ức của các dân tộc về các vị vua Hùng và thời kỳ Hùng Vương:

Trong vùng nam Đông Á và miền Bắc Việt Nam, cũng có nhiều dân tộc hiện vẫn lưu giữ ký ức về các vị vua Hùng, tôn thờ Hùng Vương như Tổ của dân tộc mình.

Đầu tiên là người Việt, các vị vua Hùng đóng đô tại vùng miền Bắc Việt Nam, trung tâm của nước Văn Lang và nơi có đông người Việt sinh sống nhất cũng là miền Bắc Việt Nam. Người Việt là hậu duệ trực tiếp của các vị vua Hùng cũng như văn hóa Đông Sơn, nên các di tích thờ tự và ký ức, truyền thuyết của người Việt thời Hùng Vương là rất nhiều và giàu có. Theo thống kê, thì trên cả nước hiện có khoảng 1.417 di tích có thờ cúng Hùng Vương và các nhân vật thời vua Hùng, riêng Phú Thọ, là kinh đô Phong Châu thời các vua Hùng có gần 330 di tích. [23]. Hằng năm người Việt vẫn tổ chức ngày lễ Giỗ Tổ vào ngày 10 tháng 3 âm lịch, đây là quốc lễ và là một tín ngưỡng tâm linh rất quan trọng đối với dân tộc Việt. Truyền thuyết về thời Hùng Vương cũng còn lại rất nhiều trong dòng văn hóa dân gian và trong sách vở như sách Lĩnh Nam chích quái [17], bên cạnh đó các truyền thuyết thời kỳ này được lưu truyền trong dân gian còn được tổng hợp trong nhiều sách hiện đại khác [24] và vẫn còn nhiều truyện mà các sách hiện có chưa ghi chép và tổng hợp lại.

Người Mường, anh em gần nhất với người Việt cũng có ký ức về các vị vua Hùng và quốc gia Văn Lang. Trong “Hòa Bình quan lang sử lược”, với những thông tin về vua Dịt Dàng đã cho thấy, Vua Hùng cũng là tổ của người Mường và đã được phản ánh trong diễn ca Mường. [25] Người Mường ở Phú Thọ cũng có tục thờ Vua Hùng trên bàn thờ dòng dõi trong các ngôi nhà của con trưởng. [26]

“Hùng Vương là tổ nước mình
Phong Châu là chốn kinh thành triều đô
Lang từ khởi tổ ngày xưa
Cuối Văn Lang quốc bây giờ đã qua
Mỗi cành con cháu phong ra
Họ chia Đinh, Quách, Bạch, Hà, Xa, Cao”
[25]

Người Dao cũng tôn thờ các vị vua Hùng như Tổ của dân tộc mình. Trong các bài hát cúng họ đều thành kính nhắc tới Vua Hùng, vua Tổ và tự nhận mình là con dân đất Việt. [27]. Người Dao thuộc hệ ngữ Hmong-Mien vốn từ vùng nam Đông Á di cư về miền Bắc Việt Nam muộn trong lịch sử, do đó đây có thể là ký ức từ xa xưa của họ khi còn trong vùng nam Đông Á. Cách họ ghi lại về Tổ Hùng Vương cũng thể hiện rõ không phải họ học của người Việt khi tới miền Bắc Việt Nam, mà là một ký ức trong tâm thức của dân tộc họ.

Gặp được vua Tổ tốt lòng
Hướng dẫn người Dao biết làm đồng làm nương
Hai tay con lạy vua Tổ Hùng Vương
Cho con bông lúa chín đỏ đầy nương
Ngô bắp đầy vườn, gia súc đầy sân
Người người sinh sôi, bản làng đông vui
Kính lạy vua Tổ tối linh!
” [27]

Người Dao Bunu tại Quảng Tây hiện vẫn sử dụng trống đồng, địa bàn sinh sống hiện tại và các nét văn hóa dân tộc cũng chứng tỏ xưa kia dân tộc Dao cũng tồn tại trong quốc gia của các vua Hùng, chịu ảnh hướng của văn hóa tộc Việt. [Nguồn: China Cultural Centre in Wellington, dẫn]

Như vậy, không chỉ người Việt mà còn nhiều dân tộc khác trong vùng nam Đông Á và miền Bắc Việt Nam, lãnh thổ của nước Văn Lang cũ vẫn có ký ức và thờ tự các vị vua Hùng. Các bằng chứng này cũng góp phần chứng minh sự tồn tại của thời kỳ Hùng Vương và các vị vua Hùng.

5. Sức ảnh hưởng của văn hóa Đông Sơn và thời kỳ Hùng Vương:

Văn hóa Đông Sơn, nền văn hóa gần nhất gắn liền với thời kỳ Hùng Vương, là một nền văn hóa có sức ảnh hưởng lớn trong vùng nam Đông Á và Đông Nam Á, đặc trưng văn hóa Đông Sơn xuất hiện trong một địa bàn rất rộng lớn bao gồm vùng phía Nam sông Dương Tử tới vùng Đông Nam Á lục địa và hải đảo. Văn hóa Đông Sơn có biểu trưng quan trọng nhất là những chiếc trống đồng. Vấn đề ảnh hưởng của văn hóa Đông Sơn chúng tôi đã khảo cứu chi tiết trong một bài viết khác [18], ở đây chúng tôi sẽ chỉ nói qua một số vấn đề liên quan tới bài viết này.

Trống đồng Đông Sơn tại các vùng Đông Nam Á. 1. Lào; 2. Myanmar; 3. Malaysia; 4. Indonesia; 5. Thái Lan; 6. Timor Leste, 7. Campuchia. [Nguồn: 1. Trường Viễn Đông Bác Cổ, dẫn; 2. bronzedrums.jimdofree.com; 3. ; 4. Met Museum, dẫn; 5. Bảo tàng Songkhla, dẫn; 6. Nuno Vasco Oliveira, Sue O’Connor & Peter Bellwood, Dong Sons drums from Timor-Leste: prehistoric bronze artefacts in Island Southeast Asia ; 7. Bảo tàng Quốc gia Phnom Penh, Campuchia, chụp bởi Helmut Loofs-Wissowa;]

Thời kỳ Hùng Vương là thời đại kéo dài nhất trong lịch sử dân tộc, bắt đầu từ khoảng 2000 năm trước công nguyên cho tới thời điểm vị vua Hùng cuối cùng nhường ngôi cho An Dương Vương là vào khoảng năm 258 trước công nguyên, triều Hùng Vương tồn tại khoảng 1742 năm, trải qua các giai đoạn đồ đá mới, đồ đồng và sơ kỳ đồ sắt. Khi còn tại vùng Dương Tử, thì cư dân tộc Việt đã xây dựng nên những nhà nước rất phát triển, có trình độ văn minh cao trong vùng Đông Á với các văn hóa Lương Chử, Thạch Gia Hà, các văn hóa tiền thân của chúng cũng đã thể hiện một trình độ phát triển cao so với vùng bắc Đông Á cùng thời, về văn hóa tộc Việt vùng Dương Tử, chúng tôi đã có một bài viết khác giới thiệu về nền văn minh sông Dương Tử [28]. Tới thời kỳ văn hóa Đông Sơn, thì đây là điểm cuối của tiến trình phát triển của cộng đồng tộc Việt, nền văn hóa trống đồng thời Đông Sơn vẫn tiếp tục được các cư dân nam Đông Á và Đông Nam Á kế thừa và sử dụng cho tới tận ngày nay. Vùng lõi của văn hóa Đông Sơn chính là vùng nam Đông Á và miền Bắc Việt Nam, tương ứng với lãnh thổ của quốc gia Văn Lang, các cổ vật trong vùng này hoàn toàn tương đồng với nhau, khác biệt đáng kể so với hệ thống cổ vật của các dân tộc tại vùng Đông Nam Á cũng chịu ảnh hưởng của văn hóa Đông Sơn. [18]

Trống đồng Việt Nam (Sông Đà), Quảng Tây, Vân Nam, Quý Châu. [Nguồn: 1. Bảo tàng Guimet, Pháp, dẫn; 2. Bảo tàng khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây, dẫn; 3. Bảo tàng tỉnh Vân Nam, dẫn; Bảo tàng tỉnh Quý Châu, dẫn]

Thạp đồng các vùng tộc Việt: Việt Nam, Quảng Đông, Vân Nam, Quảng Tây, lưu vực sông Dương Tử. [Nguồn: 1. Bảo tàng Barbier-Mueller, dẫn; 2. Bảo tàng tỉnh Quảng Đông, dẫn.; 3. Bảo tàng Khu tự trị dân tộc Choang, Quảng Tây, dẫn; 4. Trình Năng Chung, 2015, tr. 325, Mối Quan Hệ Văn Hoá Đông Sơn Và Các Văn Hoá Kim Khí Ở Miền Nam Trung Quốc; 5. Bảo tàng Văn minh Trường Giang, Trung Quốc, dẫn]

Rìu lưỡi hài tại các vùng: Việt Nam, Hồ Nam, Quảng Đông. [Nguồn: 1. Martin Doustar, 2014, Art of Bronze Age in Southeast Asia; 2. Bảo tàng tỉnh Hồ Nam, dẫn; 3. Nguồn: Bảo tàng Nanshan, Thâm Quyến, dẫn]

Rìu cân xòe tại các vùng tộc Việt: Việt Nam, Chiết Giang, Quảng Tây, Quảng Đông, Hồ Bắc, Hồ Nam. [Nguồn: 1. Art Gallery of New South Wales, dẫn; 2. Bảo tàng thành phố Ninh Ba, Chiết Giang, dẫn; 3. Bảo tàng Khu tự trị dân tộc Choang, Quảng Tây, dẫn; 4. Bảo tàng Nanshan, dẫn; 5. Bảo tàng tỉnh Hồ Bắc, dẫn; 6. Bảo tàng tỉnh Hồ Nam, China Institute, dẫn.]

Chuông tai dê tại các vùng: Quảng Đông, Việt Nam, Quý Châu, Quảng Tây, Vân Nam, Hồ Nam. [Nguồn: 1. Bảo tàng Nanshan, dẫn; 2. Báo Đảng Cộng Sản, dẫn; 3. Bảo tàng tỉnh Quý Châu, được dẫn lại trong nghiên cứu của bảo tàng Quảng Tây [dẫn]; 4. Bảo tàng Khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây, dẫn; 5. Bảo tàng Ngọc Khê, Vân Nam; 6. Bảo tàng thành phố Trường Sa, Hồ Nam.]

Dao găm tại các vùng: Việt Nam, Quảng Đông, Quảng Tây, Quý Châu, Vân Nam. [Nguồn: 1. Kiều Quang Chẩn, 2018, Vang vọng từ trống Đông Sơn; 2. Bảo tàng Nanshan, dẫn; 3. Bảo tàng Khu tự trị dân tộc Choang Quảng Tây, dẫn ; 4. Bảo tàng tỉnh Quý Châu, dẫn; 5. Bảo tàng thành phố Côn Minh, Vân Nam, dẫn]

Sự ảnh hưởng và lan tỏa của văn hóa Đông Sơn là bằng chứng rõ rệt nhất chứng minh trình độ phát triển của tộc Việt trong thời kỳ Hùng Vương, hoàn toàn có khả năng tồn tại một quốc gia lớn trong thời kỳ này, kế thừa các nhà nước lớn trong vùng Dương Tử. Dựa trên cơ sở lịch sử, chúng ta đã thấy sự tồn tại của một quốc gia do các vua Hùng làm chủ, các nghiên cứu khảo cổ, di truyền, ngôn ngữ, văn hóa mà chúng tôi đã dẫn ở các bài viết khác [1][18] cũng đã cho thấy những bằng chứng chứng minh sự tồn tại của một quốc gia, quốc gia đó chính là quốc gia Văn Lang như các tài liệu lịch sử đã ghi lại.

6. Chữ viết, một yếu tố phụ hỗ trợ cho sự tồn tại của nước Văn Lang:

Như một yếu tố hỗ trợ cho sự tồn tại của quốc gia Văn Lang, thì thời kỳ này các tài liệu khảo cổ cho thấy đã xuất hiện một hệ thống chữ viết ký âm rất phát triển, các hoạt động của quốc gia này được tổ chức với hệ thống chữ viết này.

Công trình khảo cứu: Sự hình thành và phát triển của chữ Việt cổ của Giáo sư Lê Trọng Khánh [30], ông đã tìm thấy nhiều chữ viết được thể hiện trên các cổ vật bằng đồng thời văn hóa Đông Sơn, bằng kiến thức uyên bác của mình, ông đã khảo cứu và đối chiếu hệ thống chữ thu thập được trên các cổ vật đồng Đông Sơn với các hệ thống chữ Thái cổ và chữ Chăm để xác định được đây là một hệ thống chữ thời Đông Sơn.

Các cổ vật của văn hóa Đông Sơn có thể hiện chữ viết được Gs. Lê Trọng Khánh khảo cứu. [29]

Trên cơ sở những hiện vật giải mã ở trên, đã phát hiện được những chữ cái Đông Sơn gồm 18 phụ âm và 9 nguyên âm:

Sau khi so sánh, đối chiếu và khảo cứu kỹ lưỡng, Gs. Lê Trọng Khánh đưa ra kết luận:

“Chữ viết Đông Sơn là phương tiện ghi lại bằng đồ hình hình thức biểu đạt âm thanh của ngôn ngữ Việt cổ. Mỗi chữ, có khi một tổ hợp chữ ghi lại một âm vị.”“Khảo sát các văn bản thuộc chữ viết Đông Sơn, có những nguyên âm đứng sau hoặc dưới phụ âm nguyên âm còn làm chức năng thay thế, trở thành biến âm. Chữ Sumer các kết hợp ngữ pháp hình thành nhờ có phụ tố chữ viết. Đông Sơn đã thấy xuất hiện phụ âm cao và thấp, liên quan trực tiếp đến vấn đề thanh điệu.” [29]

Hệ thống chữ viết này chứng minh trình độ phát triển của cộng đồng tộc Việt, cũng như là cơ sở hỗ trợ cho các hoạt động của triều đình và tổ chức quốc gia trong thời kỳ Hùng Vương.

III. Kết luận:

Qua việc khảo cứu các tài liệu lịch sử của cả Trung Hoa và Việt Nam, chúng ta đã thấy được rất rõ nét về sự tồn tại của thời kỳ Hùng Vương và nước Văn Lang. Các tài liệu này cùng với những tài liệu di truyền, khảo cổ mà chúng tôi triển khai chứng minh trong một bài viết khác [1] đã cùng góp phần chứng minh tính thực tế của quốc gia Văn Lang của các vua Hùng.

Các quốc gia của các vị vua Hùng bao gồm cả các vùng Bách Việt trong lịch sử, hay của cộng đồng tộc Việt, quốc gia này do đó không chỉ nằm trong miền Bắc Việt Nam như có giả thuyết đã đề xuất, ký ức về thời kỳ Hùng Vương và các vị vua Hùng vẫn rất đậm nét ở nhiều dân tộc trong vùng nam Đông Á và miền Bắc Việt Nam, chứ không chỉ tồn tại ở riêng người Việt.

Những bằng chứng lịch sử, khảo cổ, di truyền cũng như di sản văn hóa tại các dân tộc đã khẳng định rất rõ sự tồn tại của thời kỳ Hùng Vương và quốc gia Văn Lang, vì vậy các quan điểm phủ nhận sự tồn tại của thời kỳ Hùng Vương và quốc gia Văn Lang vì vậy là không còn phù hợp.

Lang Linh


Tài liệu tham khảo:

[1] Lang Linh, Bách Việt và cơ sở thống nhất của cộng đồng Bách Việt
https://luocsutocviet.wordpress.com/2020/02/24/478-bach-viet-va-co-so-thong-nhat-cua-cong-dong-bach-viet/

[2] Tích Dã, Thời đại Văn Lang – Âu Lạc trong lịch sử Việt Nam: Từ truyện ký đến tín sử
https://nghiencuulichsu.com/2019/05/10/thoi-da%cc%a3i-van-lang-au-la%cc%a3c-trong-li%cc%a3ch-su%cc%89-vie%cc%a3t-nam-tu-truye%cc%a3n-ky-den-tin-su%cc%89/

[3] Trần Kinh Hòa (Cheng Ching-Ho), 1960, Khảo cứu về danh xưng Giao Chỉ, tạp chí Đại học Huế.

[4] Phan Anh Dũng, Khảo sát tên gọi Văn Lang trên cơ sở ngữ âm lịch sử
http://vanhoanghean.com.vn/component/k2/111-goc-nhin-van-hoa-2/13730-khao-sat-ten-goi-van-lang-tren-co-so-ngu-am-lich-su

[5] Lê Văn Hưu, Phan Phu Tiên, Ngô Sĩ Liên, Đại Việt sử ký toàn thư, Quyển I, Kỷ Hồng Bàng thị, dịch bởi Viện Khoa Học Xã Hội Việt Nam.

[6] Liu D, Duong NT, Ton ND, Van Phong N, Pakendorf B, Van Hai N, Stoneking M (2020). Extensive ethnolinguistic diversity in Vietnam reflects multiple sources of genetic diversity. Molecular Biology and Evolution.
https://doi.org/10.1093/molbev/msaa099

[7] McColl H, Racimo F, Vinner L, Demeter F, Gakuhari T, Moreno-Mayar JV, Van Driem G, Wilken UG, Seguin-Orlando A, De la Fuente Castro C, Wasef S (2018). The prehistoric peopling of Southeast Asia. Science. 361(6397):88-92.
https://science.sciencemag.org/content/361/6397/88

[8] Li Liu, Xingcan Chen (2012). The archaeology of China: from the late Paleolithic to the early Bronze Age: Cambridge University Press.

[9] Chi Hung 洪曉純 Zhang, Hsiao-Chun (2009). The Neolithic of Southern China–Origin, Development, and Dispersal. Asian Perspectives;47.

[10] Ferlus, Michel. “Formation of Ethnonyms in Southeast Asia.” (2009).
https://halshs.archives-ouvertes.fr/halshs-01182596/document

[11] Colin Renfrew, Bin Liu (2018). The emergence of complex society in China: the case of Liangzhu. Antiquity;92(364):975-90.
https://www.cambridge.org/core/journals/antiquity/article/emergence-of-complex-society-in-china-the-case-of-liangzhu/

[12] Tống Kiến 宋建 (2017). Liangzhu – một quốc gia cổ đại phức tạp bị chi phối bởi thần quyền 良渚——神权主导的复合型古国. 东南文化;(1):6-15.

[13] Bin Liu, Ningyuan Wang, Minghui Chen, et al. (2017). Earliest hydraulic enterprise in China, 5,100 years ago. Proceedings of the National Academy of Sciences; 114(52):13637-42.
https://www.pnas.org/content/114/52/13637

[14] Chunfeng Zhang (2019). On determining the nature of Liangzhu 良渚 symbols. Journal of Chinese Writing Systems;3(2):121-8.
https://www.researchgate.net/publication/332595714_On_determining_the_nature_of_Liangzhu_liangzhu_symbols

[15] Bing Li, Cheng Zhu, Li Wu, Feng Li, Wei Sun, Xiaocui Wang, Hui Liu, Huaping Meng, Di Wu (2013). Relationship between environmental change and human activities in the period of the Shijiahe culture, Tanjialing site, Jianghan Plain, China
https://www.researchgate.net/publication/260850162_Relationship_between_environmental_change_and_human_activities_in_the_period_of_the_Shijiahe_culture_Tanjialing_site_Jianghan_Plain_China

[16] Lang Linh, Huyền sử Hồng Bàng và nguồn gốc dân tộc Việt Nam.
https://luocsutocviet.wordpress.com/2020/07/16/498-huyen-su-hong-bang-va-nguon-goc-dan-toc-viet-nam/

[17] Trần Thế Pháp, Lĩnh Nam chích quái, Lê Hữu Mục dịch, Nhà sách Khai Trí, 1960.

[18] Lang Linh, Khảo cứu về nền văn hóa Đông Sơn.
https://luocsutocviet.wordpress.com/2020/10/11/502-khao-cuu-ve-nen-van-hoa-dong-son/

[19] Lê Trọng Khánh, Những tín hiệu thu nhận từ bản lược đồ địa danh – ngôn ngữ Việt cổ – bước đầu góp phần vào việc tiếp cận một số vấn đề lịch sử cổ đại
https://repository.vnu.edu.vn/bitstream/VNU_123/71284/1/263%281992-4%29%285%29.pdf

[20] Lang Linh, Sở, Ngô, Việt có phải tộc Việt không?
https://luocsutocviet.wordpress.com/2021/03/19/513-so-ngo-viet-co-phai-toc-viet-khong/

[21] Tích Dã, Vương quốc Dạ Lang
https://nghiencuulichsu.com/2014/04/21/vuong-quoc-da-lang/

[22] Lang Linh, An Dương vương trong dòng lịch sử tộc Việt
https://luocsutocviet.wordpress.com/2020/12/29/504-an-duong-vuong-trong-dong-lich-su-toc-viet/

[23] Thu Hà, Về các di tích thờ Vua Hùng và các danh tướng thời Hùng Vương ở Phù Ninh
http://baophutho.vn/den-hung/202101/ve-cac-di-tich-tho-vua-hung-va-cac-danh-tuong-thoi-hung-vuong-o-phu-ninh-169974

[24] a. Viện nghiên cứu văn hóa, Tinh hoa văn học dân gian người Việt: Truyền thuyết dân gian người Việt, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội. Quyển 1 và Quyển 5; b. Vũ Kim Biên, Truyền thuyết Hùng Vương: Thần thoại vùng đất tổ, Sở văn hóa thông tin Phú Thọ, 2008.

[25] Quách Điều: Hòa Bình quan lang sử lược, Tạp chí Nam Phong, số 100, 1925.

[26] Nguyễn Hữu Nhàn, Dấu ấn văn hóa Hùng Vương
https://nhandan.com.vn/dan-toc-ton-giao/dau-an-van-hoa-hung-vuong–642714/

[27] Dương Huy Thiện, Quốc Tổ Hùng Vương trong tâm tưởng người Dao
baophutho.vn/den-hung/tin-nguong-hung-vuong/201603/quoc-to-hung-vuong-trong-tam-tuong-nguoi-dao-14793

[28] Lang Linh, Dương Tử: cái nôi của nền văn minh tộc Việt
https://luocsutocviet.wordpress.com/2021/03/17/512-duong-tu-cai-noi-cua-nen-van-minh-toc-viet/

[29] Lê Trọng Khánh, 1986, Sự hình thành và phát triển chữ Việt cổ.
https://luocsutocviet.wordpress.com/2020/08/06/502-su-hinh-thanh-va-phat-trien-chu-viet-co/

Bình luận về bài viết này

Trang web này sử dụng Akismet để lọc thư rác. Tìm hiểu cách xử lý bình luận của bạn.