519. 🌟 Nhân sinh quan của người Việt trong dòng văn hóa dân gian

I. NHÂN SINH QUAN NGƯỜI VIỆT VÀ FOLKLORE VIỆT NAM – MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN

1.1. NHÂN SINH QUAN VÀ NHÂN SINH QUAN NGƯỜI VIỆT

1.1.1. Nhân sinh quan

Các nhà ngôn ngữ học Việt Nam trong cuốn Đại từ điển tiếng Việt Từ điển tiếng Việt cho rằng: nhân sinh quan là quan niệm về cuộc đời, thành hệ thống bao gồm lý tưởng, lẽ sống, lối sống… [121, tr. 1239]; hay: nhân sinh quan là quan niệm thành hệ thống về cuộc đời, về ý nghĩa, mục đích sống của con người [88, tr. 947].

Cuốn Từ điển Bách khoa Việt Nam trình bày tương đối rõ ràng, cụ thể về nhân sinh quan: 

Nhân sinh quan là bộ phận của Thế giới quan (hiểu theo nghĩa rộng), gồm những quan niệm về cuộc sống của con người: lẽ sống của con người là gì? mục đích, ý nghĩa, giá trị của cuộc sống con người ra sao và sống như thế nào cho xứng đáng? trả lời những câu hỏi đó là vấn đề nhân sinh quan. Khác với loài cầm thú, bất kì người nào cũng có quan niệm của mình về cuộc sống. Trong đời thường, đó là nhân sinh quan tự phát, “ngây thơ” của đại chúng; các nhà tư tưởng khái quát những quan điểm ấy, nâng lên thành lí luận, tạo ra nhân sinh quan tự giác, mang tính nguyên lí triết học. Nhân sinh quan phản ánh tồn tại xã hội của con người. Nội dung của nó biểu hiện những nhu cầu, lợi ích, khát vọng và hòai bão của con người trong mỗi chế độ xã hội cụ thể [46, tr. 235-236].

Cũng cần thấy rằng, người phương Đông nói chung, người Việt Nam nói riêng thường hay sử dụng các khác niệm: nhân sinh quan, triết lý sống, đạo lý, đạo làm người với một hàm nghĩa tương tự nhau. Song thực chất, là những hình thức lý luận của nhân sinh quan, chúng có những sắc thái riêng, phản ánh ý nghĩa và nội dung của phạm trù nhân sinh quan, với mục đích giáo dục con người, khích lệ các cá nhân hay cộng đồng tham khảo để vận dụng trong cuộc sống. 

Bàn về các vấn đề thuộc phạm trù nhân sinh quan, các nhà triết học phương Tây lại nhấn mạnh đến giác độ khoa học tự nhiên hoặc giác độ hoạt động lý tính của con người để lý giải bản chất con người và các vấn đề khác có liên quan. Nếu như các nhà triết học duy vật đưa ra quan niệm về bản chất vật chất tự nhiên của con người, coi con người cũng như vạn vật trong giới tự nhiên không có gì thần bí, đều được cấu tạo nên từ vật chất thì các nhà triết học duy tâm lại lý giải bản chất lý tính của con người từ giác độ siêu tự nhiên. 

Như vậy, có thể hiểu một cách đơn giản nhất, nhân sinh quan là quan niệm về con người và cuộc sống của con người, ví như: con người được sinh ra từ đâu? tồn tại như thế nào? phương thức sống ra sao? ý nghĩa, giá trị của cuộc sống con người là gì?…

Nhân sinh quan ra đời từ cuộc sống, là kết quả trực tiếp của quá trình nhận thức, song, suy đến cùng, nó là kết quả của cả những yếu tố khách quan và chủ quan, của cả hoạt động nhận thức và hoạt động thực tiễn.

Nhân sinh quan là một bộ phận cấu thành quan trọng của thế giới quan, chịu sự quy định của thế giới quan. Nhân sinh quan thể hiện trên ba phương diện chủ yếu là mục đích nhân sinh, thái độ nhân sinh và giá trị nhân sinh.

Nội dung của nhân sinh quan bao gồm: Thứ nhất, là những cái bên trong – chính bản thân con người: con người hiểu về mình, nhận thức về mình, có những quan điểm, quan niệm của riêng mình; Thứ hai, là mối quan hệ của con người và cái bên ngoài con người: con người có sự hiểu biết những cái bên ngoài mình và hiểu biết về mối quan hệ giữa cái bên trong con người với thế giới bên ngoài.

Nhân sinh quan có rất nhiều chức năng như chức năng nhận xét, chức năng đánh giá, nhận thức, nhận định…, trong số đó, chức năng định hướng cho hoạt động của con người, định hướng cho toàn bộ cuộc sống của con người, định hướng cho quan hệ con người, cho hệ giá trị con người… là chức năng quan trọng nhất. 

Trong xã hội có giai cấp, nhân sinh quan mang tính giai cấp. Giai cấp “tiến bộ”, đang đi lên trong lịch sử có nhân sinh quan lạc quan, tích cực, cách mạng; ngược lại, nhân sinh quan của giai cấp đang đi xuống thường mang tính bi quan, yếm thế. Nếu phản ánh đúng khuynh hướng khách quan của lịch sử thì nhân sinh quan là nhân tố mạnh mẽ để cải tạo xã hội một cách hợp lí; nếu phản ánh không đúng thì nó có tác dụng ngược lại, cản trở xã hội tiến lên [46, tr. 236]. 

Có rất nhiều cách phân chia các loại hình của nhân sinh quan, có thể phân chia từ góc độ nhân sinh quan cá nhân hay nhân sinh quan cộng đồng, có thể phân chia dựa trên vai trò của nhân sinh quan (tích cực hay tiêu cực), hoặc có thể phân chia theo trình độ nhận thức và tư duy của con người. 

Luận án này tiếp cận từ cách phân chia dựa trên vai trò của nhận thức và lý tính, chúng tôi nhận thấy, trong quá trình phát triển của mình, nhân sinh quan tồn tại dưới ba hình thức cơ bản: nhân sinh quan thần thoại, nhân sinh quan tôn giáo, nhân sinh quan triết học.

* Nhân sinh quan thần thoại

Nhân sinh quan thần thoại hình thành và phát triển trong giai đoạn đầu của xã hội loài người. Nhân sinh quan thần thoại phản ánh quan niệm của con người thời cổ về nguồn gốc thế giới và đời sống con người, trong đó, các yếu tố như tri thức và tình cảm, lý trí và tín ngưỡng, hiện thực và tưởng tượng, cái hư ảo và cái thật hòa quyện vào nhau.

Nhân sinh quan thần thoại thể hiện chủ yếu qua các câu chuyện thần thoại như: Prometheus và nguồn gốc loài người (thần thoại Hy Lạp); Nữ Oa (thần thoại Trung Quốc); Lạc Long Quân – Âu Cơ (thần thoại Việt Nam)…

Nội dung của chúng có sự pha trộn giữa thần và người, giữa thật và ảo, trật tự không gian và thời gian bị đảo lộn không tự giác. Nhân sinh quan thần thoại thể hiện trình độ nhận thức thấp, chủ yếu ở cấp độ nhận thức cảm tính nên những gì trừu trượng thường được con người hình dung dưới những sự vật hữu hình, cụ thể.

Nội dung của nhân sinh quan thần thoại chủ yếu bàn về nguồn gốc ra đời của loài người. Theo huyền sử Hy Lạp, khi trái đất còn đang trong cảnh hỗn mang tăm tối, anh em Prô-mê-tê (Prometheus) và Ê-pi-mê-tê (Epimetheus) được Thần Dớt (Zeus) giao cho nhiệm vụ cai quản trái đất, sáng tạo ra con người. Hai Anh em Prô-mê-tê đã lấy đất sét trộn với nước nặn thành hình muôn loài. Sau mười hai ngày đêm, Prô-mê-tê hòan thành tác phẩm “người đàn ông” theo hình dáng các vị Thần. Vì muốn trao một đặc quyền gì đó cho con người, Prô-mê-tê bèn trộm lấy lửa của thần Dớt đem xuống trần gian trao cho những sinh linh yêu quí. Lửa thắp sáng và sửa ấm. Nhờ đó mà con người ngày càng phát triển [92, tr. 22-23].

Còn theo thần thoại Trung Quốc, Nữ Oa là vị thần sáng tạo ra con người. Tương truyền sau khi anh hùng Bàn Cổ khai thiên lập địa, Nữ Oa đã du ngoạn đó đây giữa Trời Đất. Buồn chán vì cảnh vật không sinh động, hoạt bát, Bà quyết định dùng bùn dưới sông Hòang Hà nặn những người đất theo hình dạng của mình. Nữ Oa thổi hơi tiên vào những người đất nhỏ này, khiến chúng có thể đứng thẳng người, biết đi lại, biết nói. Những con người này vây quanh Nữ Oa nhảy múa, reo hò, mang lại sức sống cho Mặt Đất [12, tr. 7].

Hay như truyền thuyết con người được sinh ra từ sự kết hợp của 12 bà Mụ (truyện Mười hai bà Mụ – thần thoại Việt Nam). Mười hai bà Mụ là những vị thần có trách nhiệm nắn lại cơ thể cho một người nào đó khi được lệnh đầu thai, mỗi bà Mụ lo một việc: người nắn tai, người nắn mắt, người nắn tứ chi, người dạy trẻ cười, người dạy trẻ nói… Truyện Lạc Long Quân – Âu Cơ cho ta biết thủy tổ sinh ra dân tộc Việt Nam từ bọc trăm trứng. Thần thoại Đẻ đất đẻ nước của người Mường thì cho rằng đôi chim Tùng, chim Tót (có nơi còn gọi là chim Ây cái Ứa hoặc chim Tráng, chim Trò…) đẻ ra trứng và từ trứng nở ra người…

Nhân sinh quan thần thoại cũng bước đầu đề cập đến những quan niệm về phương thức sống, lẽ sống, giá trị cuộc sống của con người. Đó là Sử thi thần thoại Ẳm ẹt luông của dân tộc Thái kể lại quá trình đấu tranh gian khổ của loài người nhằm sinh tồn và phát triển; truyện Cây thuốc thần, Chú Cuội cung trăng… – những thần thoại nói tới ước mơ sống sung túc, lao động không vất vả, về cuộc sống chống lại được bệnh tật và con người được trở nên bất tử nhờ các giống cây thần diệu; là hình tượng người anh hùng làng Gióng giết giặc Ân được kể trong truyện Thánh Gióng, hình tượng Thạch Sanh trong truyện Thạch Sanh (với khá nhiều yếu tố thần thoại lẫn cổ tích) có chiến công diệt yêu quái, đã phản ánh cuộc đấu tranh với sự cường điệu đầy tính thần kỳ về các anh hùng của dân tộc Việt, nhằm mang lại nền thái bình cho đất nước… 

Có thể nói, cùng với thế giới quan thần thoại, nhân sinh quan thần thoại được xem là hình thái ý thức xã hội đầu tiên của loài người, trong đó đã bước đầu khái quát những cảm nhận về thế giới và con người của người nguyên thủy, với các yếu tố tri thức và cảm xúc, lý trí và tín ngưỡng, hiện thực và tưởng tượng, cái thật và ảo, cái thần và người hòa quyện vào nhau. 

* Nhân sinh quan tôn giáo

Nhân sinh quan tôn giáo là sự phản ánh thế giới và con người một cách hư ảo, trong đó, niềm tin tôn giáo đóng vai trò quyết định, tín ngưỡng cao hơn lý trí, cái hư ảo lấn át cái thực. Nhân sinh quan tôn giáo thể hiện qua giáo lư của các tôn giáo.

Nhân sinh quan tôn giáo ra đời khi trình độ nhận thức và khả năng hoạt động thực tiễn của con người còn rất thấp nên con người bất lực, sợ hãi trước những lực lượng tự nhiên cũng như những lực lượng xã hội, dẫn đến việc họ thần thánh hoá chúng, quy chúng về sức mạnh siêu tự nhiên và tôn thờ chúng.

Nội dung của nhân sinh quan tôn giáo chủ yếu bàn về con người trong các mối quan hệ của mình với thế giới các thánh, thần, trong đó nhấn mạnh đến những lời răn, đe về đạo lý, đạo làm người. 

Trong các tôn giáo phương Đông, vấn đề con người, nội tâm con người, mối quan hệ con người với tự nhiên, mối quan hệ giữa con người với con người trên ba chiều cạnh (cá nhân, gia đình, xã hội) là nội dung cốt lõi nhất của nhân sinh quan tôn giáo. Chẳng hạn, bàn về thế giới nội tâm con người có lẽ chưa có tôn giáo nào đi sâu như Phật giáo. Phật giáo nghiên cứu những cái bản năng, dục tính, ngã, siêu ngã, tiềm thức trong con người, để từ đó đi đến kết luận: Tham, Sân, Si là biểu hiện của tự ngã sai lầm; vô tham, vô sân, vô si là biểu hiện của cái vô ngã. Đây là hai mặt của một nhân cách. Do hai mặt này, nhân cách không thiện và nhân cách thiện đều có mặt trong cùng một cá nhân [77, tr. 89]. Lý thuyết của Phật giáo lấy con người là trung tâm, thấy được nỗi khổ của chúng sinh và mong muốn chúng sinh thoát khỏi vòng bể khổ bằng cách hướng con người tu tập thân tâm, vượt qua mọi cám dỗ để hòan thiện dần nhân cách. 

Trong các tôn giáo phương Tây, Công giáo là tôn giáo quan tâm nhiều đến vấn đề gia đình, về mối quan hệ vợ – chồng, mối quan hệ bố mẹ – con cái. Nhìn chung những giáo lý của nó về vấn đề này rất phù hợp với tâm lý của người phương Đông nói chung và người Việt Nam nói riêng vì nó cổ vũ cho sự hiếu kính, vâng lời, phụng dưỡng, đền đáp công ơn sinh thành dưỡng dục của cha mẹ. Cha mẹ không có quyền ép duyên con cái mà chỉ định hướng, giáo dục và chỉ dẫn con cái trong việc hôn nhân. Hôn nhân và tình yêu vợ chồng đều phải hướng vào việc truyền sinh và giáo dục, con cái được quyền yêu thương, đón nhận và dạy dỗ… Thêm nữa, Giáo Hội Công giáo thực sự quan tâm đến vấn đề môi sinh, vấn đề đó nằm trong phạm vi giáo huấn của Giáo Hội. Trong quan niệm của họ, thiên nhiên là món quà mà Chúa ban tặng cho con người, nên con người phải có trách nhiệm đón nhận, nâng niu và bảo vệ nó như bảo vệ các giá trị luân lý của chính đời sống cá nhân mình [77, tr. 96-99].

Có thể nói, những tư tưởng nhân sinh trong giáo lý các tôn giáo chính là tài sản quý giá mà tôn giáo đóng góp cho nhân loại. Nhân sinh quan tôn giáo bao giờ cũng hướng đến xác lập một hệ giá trị, chuẩn mực đạo đức giúp điều chỉnh hành vi con người trong những hòan cảnh nhất định, tạo ra một lối sống thánh thiện, lấy liên đới giữa đấng sáng thế với con người, liên đới giữa con người với con người làm lẽ sống.

* Nhân sinh quan triết học

Nhân sinh quan triết học là nhân sinh quan có hạt nhân lý luận là các triết thuyết. Nhân sinh quan triết học được thể hiện qua các học thuyết triết học, nó là bộ phận quan trọng nhất vì chi phối tất cả những quan điểm, quan niệm khác của nhân sinh quan con người. Bởi lẽ, trong lịch sử tư tưởng nhân loại, khi nhân sinh quan thần thoại và nhân sinh quan tôn giáo bế tắc, không giải quyết được các vấn đề nhân sinh thì nhân sinh quan triết học sẽ thể hiện chức năng định hướng và dẫn dắt tư duy cho con người. Nhân sinh quan triết học ra đời khi nhận thức của con người đã đạt đến trình độ cao của sự khái quát hoá, trừu tượng hoá và khi các lực lượng xã hội đã ý thức được sự cần thiết phải có định hướng về tư tưởng để chỉ đạo cuộc sống.

Tính chất của nhân sinh quan triết học bị chi phối bởi tính chất của các học thuyết triết học, nghĩa là, nếu như lập trường triết học là duy vật thì nhân sinh quan ấy là nhân sinh quan duy vật, ngược lại, nhân sinh quan duy tâm là sản phẩm của Chủ nghĩa duy tâm. Bản thân Chủ nghĩa duy vật cũng tồn tại nhiều loại hình, có thứ duy vật chất phát, duy vật siêu hình, hay duy vật biện chứng thì tương ứng với nó sẽ là nhân sinh quan chất phát, nhân sinh quan siêu hình hoặc nhân sinh quan biện chứng. Học thuyết triết học là duy tâm chủ quan hay duy tâm khách quan thì nhân sinh quan đó sẽ là nhân sinh quan duy tâm chủ quan hoặc nhân sinh quan duy tâm khách quan [46, tr. 236]. 

Nhân sinh quan triết học bàn rất nhiều vấn đề liên quan đến con người như: nguồn gốc của con người, phương thức sống của con người, lối sống của con người, lý tưởng sống của con người… với những hệ thống quan điểm lý luận tương đối rõ ràng, cụ thể. Mỗi một trường phái triết học khác nhau đều đưa ra những triết lý nhân sinh theo quan điểm của mình, nhưng tựu chung lại đều hướng đến việc luận giải về cuộc đời con người và biện pháp giải phóng toàn diện con người.

Nhân sinh quan triết học Mác – Lênin được xem là học thuyết tiến bộ về con người, bởi đó là nhân sinh quan triết học duy vật biện chứng. Chủ nghĩa duy vật biện chứng tồn tại với tư cách là cơ sở lý luận của nhân sinh quan khoa học. 

Chủ nghĩa Mác là khoa học về các quy luật phát triển của lịch sử, chỉ rõ hoạt động của con người có tác dụng cải tạo tự nhiên, cải tạo xã hội, và qua đó mà tự cải tạo, tự nâng mình lên, đó là nhân tố quyết định sự tiến bộ xã hội. Vì vậy, sứ mệnh của mỗi người là thúc đẩy những quá trình phát triển xã hội đã chín muồi, những hoạt động lao động sáng tạo và cải tạo xã hội, đem lại một xã hội tốt đẹp tự do, ấm no, hạnh phúc cho mọi người, đồng thời qua đó mà hòan thiện những năng lực trí tuệ, tình cảm của bản thân mình. Đó là nhân sinh quan cách mạng, mang tính khoa học của giai cấp vô sản và của con người mới trong chế độ xã hội chủ nghĩa [46, tr. 236].

Nhìn chung, các quan niệm nêu trên đã phần nào chỉ ra hoặc góp phần bổ sung, làm sáng tỏ phạm trù nhân sinh quan. Các quan niệm đó tiếp cận vấn đề nhân sinh quan theo nhiều hướng: kết cấu, vai trò, chức năng, loại hình… giúp chúng tôi có cái nhìn cụ thể, đa chiều về nhân sinh quan.

Kế thừa các hướng nghiên cứu đó, trong luận án này, chúng tôi sử dụng khái niệm nhân sinh quan theo nghĩa: Nhân sinh quan là một phạm trù dùng để chỉ những quan niệm, quan điểm mang tính định hướng của con người về mối quan hệ của họ với gia đình, xã hội và môi trường tự nhiên.

1.1.2. Nhân sinh quan người Việt

Sau khi nghiên cứu các loại hình nhân sinh quan của con người trong lịch sử, từ nhân sinh quan thần thoại, nhân sinh quan tôn giáo đến nhân sinh quan triết học, và, với mục đích tìm hiểu nhân sinh quan/triết học của người Việt qua các loại hình Folklore, chúng tôi muốn dành một tiểu tiết để khái quát quá trình hình thành và một số đặc thù nhân sinh quan triết học của người Việt, những đặc điểm nhân sinh này sẽ được minh chứng cụ thể qua một số lễ hội và tín ngưỡng dân gian Việt Nam ở chương sau.

Trước hết, khái niệm người Việt trong luận án này dùng để chỉ tất cả cộng đồng người Việt Nam chứ không phải hiểu theo nghĩa là tộc người Việt (người Kinh). Do vậy, nhân sinh quan người Việt là nhân sinh quan của cộng đồng dân tộc Việt Nam. 

Thứ đến, để xác định được những đặc thù của nhân sinh quan người Việt, chúng ta không thể không nhìn lại lịch sử dân tộc Việt Nam, vì đặc thù nhân sinh quan người Việt đi cùng hành trình của lịch sử dân tộc, với những dấu mốc sau: (1) Giai đoạn mở đầu của lịch sử dân tộc, gắn với thời kỳ Hùng Vương dựng nước cho đến khởi nghĩa Hai Bà Trưng. Thời kỳ này, tư tưởng dân tộc mang sắc thái ngọn nguồn bản địa; (2) Giai đoạn Bắc thuộc với chính sách Hán hoá, sự trỗi dậy của ý thức/tư tưởng dân tộc để chống lại xu hướng Hán hóa; (3) Giai đoạn tự chủ, với các triều đại: Lý, Trần, Lê, Nguyễn, tư duy dân tộc chịu ảnh hưởng nhiều từ các triết thuyết Nho – Phật – Đạo đến từ Trung Hoa và Ấn Độ; (4) Giai đoạn ảnh hưởng của văn hóa phương Tây (Pháp, Mỹ) và thời đại Hồ Chí Minh gắn với phong trào giải phóng dân tộc và những biến đổi to lớn của đất nước sau 1975, tư duy dân tộc chịu ảnh hưởng của ý thức hệ mác xít và các trào lưu tư tưởng phương Tây.

Sự gắn kết đặc thù nhân sinh quan người Việt với những giai đoạn lịch sử như trên, chúng tôi có thể chỉ ra một số đặc điểm sau:

Một là, đặc thù nhân sinh quan người Việt thường gắn bó chặt chẽ với vận mệnh của dân tộc, các triết lý nhân sinh của người Việt đều giải đáp những vấn nạn mà người Việt gặp phải trên con đường dựng nước và giữ nước của họ. Chẳng hạn, mỗi khi tổ quốc lâm nguy, tinh thần yêu nước trở thành giá trị nổi trội, tạo nên sức mạnh vô biên giúp chúng ta chiến thắng kẻ thù. Yêu nước trở thành triết lý nhân sinh tiêu biểu của người Việt, là “sợi chỉ đỏ” xuyên suốt toàn bộ quá trình lịch sử của dân tộc Việt Nam. 

Tâm thức Việt về một hệ thống thần kỳ sông núi, khí thiêng non nước luôn ủng hộ sự nghiệp đấu tranh chống phương Bắc ngày càng hòan thiện và phổ biến đã trở thành một sức mạnh tinh thần mãnh liệt nuôi dưỡng ý chí đấu tranh giành độc lập tự chủ của người Việt qua cả nghìn năm. Tất cả những khía cạnh tinh thần đó đã làm hình thành một nét đặc trưng cho tư duy Việt, cho thế sinh Việt trong suốt thời kỳ chống Bắc thuộc kéo dài hơn 10 thế kỷ [11, tr. 79].

Hai là, nhân sinh quan người Việt luôn gắn liền với các điều kiện sinh tồn của họ, đó là nông nghiệp (lúa nước), nông thôn (thiết chế làng – xã) và con người (nông dân), được triển khai trong một hệ thống hòan chỉnh trên mọi chiều kích của các mối quan hệ: lao động – sản xuất, môi trường thiên nhiên, môi trường xã hội, gia đình, dòng tộc, họ hàng… Do cuộc sống phụ thuộc vào các yếu tố “thuần nông” như vậy, người Việt luôn có xu hướng hài hòa, yêu quý, tôn trọng và sùng bái tự nhiên. Lối sống “hòa mình” với thiên nhiên trở thành một triết lý sống rất đặc trưng của người Việt.

Ba là, nhân sinh quan người Việt là mẫu số chung của phép cộng các triết lý nhân sinh của các tộc người – mà các tộc người này trong quá trình cộng cư lâu dài, đã diễn ra sự đan xen văn hóa, với dòng chủ lưu, cốt lõi là văn hóa Việt/Kinh, hấp lực các nền văn hóa của các tộc người khác xung quanh mình nhưng không phá vỡ diện mạo riêng có của nó. Là dân tộc chủ thể, có ưu thế trong tiếp thu, truyền bá văn hóa bên ngoài, người Kinh (Việt) đã ảnh hưởng sâu sắc đến sự biến đổi văn hóa của nhiều tộc người, song không làm mất đi bản sắc của các tộc người đó. Ngược lại, có những nét văn hóa của người Kinh được thẩm thấu, lan tỏa vào cộng đồng các dân tộc ít người, khiến cho văn hóa Việt đa dạng trong tính thống nhất. Có thể nhận thấy rõ điều này qua loại hình tín ngưỡng dân gian. Bên cạnh các tín ngưỡng đặc trưng của dân tộc mình (ảnh hưởng của các tôn giáo, tín ngưỡng nguyên thủy như tô tem giáo, bái vật giáo), đồng bào các dân tộc ít người cũng tiếp thu và lưu truyền các tín ngưỡng dân gian phổ biến trong cộng đồng người Việt/Kinh như tín ngưỡng thờ cúng tổ tiên, tín ngưỡng thờ Mẫu, tín ngưỡng phồn thực, tín ngưỡng thờ các loại thần (nhiên thần, thành hòang làng, thần anh hùng dân tộc)…

Bốn là, nhân sinh quan người Việt thường được biểu đạt qua hai dòng: văn hóa dân gian (Folklore) và văn hóa bác học hàn lâm (Academic). Cả hai dòng ấy đều có sự đan xen, thẩm thấu, ảnh hưởng lẫn nhau, tạo ra những giá trị và những bản sắc cho nhân sinh quan người Việt.

Năm là, thái độ trọng nghĩa – tình là truyền thống của văn hóa Việt Nam, nó được phản ánh khá đậm nét trong nhân sinh quan người Việt. Trong ứng xử, người Việt luôn nêu cao triết lý nhân nghĩa, thuỷ chung: Ăn quả nhớ kẻ trồng cây; Uống nước nhớ nguồn; quý trọng con người: Người sống, đống vàng; Người làm nên của, của không làm nên người…; trọng tình làng nghĩa xóm: Bán anh em xa mua láng giềng gần; Người xưa đã nói chớ quên/Láng giềng tắt lửa tối đèn có nhau/Giữ gìn tình nghĩa tương giao/Sẵn sàng giúp đỡ khác người nào thân… 

Sáu là, vì nằm giữa hai nền văn minh Trung Hoa và Ấn Độ, trong quá trình phát triển, nhân sinh quan người Việt đã tiếp thu (dù cưỡng bức hay chủ động) nhiều yếu tố trong triết lý nhân sinh của hai nền văn hóa trên qua hệ thống các học thuyết triết học của nó như Phật giáo, Đạo giáo, Nho giáo và sau này là Kitô giáo và chủ nghĩa Mác – Lênin đến từ phương Tây. Nhân sinh quan người Việt được hình thành trước thời kỳ Hán hóa, có bản sắc, sắc thái riêng. Khi các tôn giáo phương Đông du nhập vào, chúng được tiếp biến để thích nghi, hòa đồng với cái bản địa. Sự dung hợp các luồng tư tưởng, tôn giáo ấy đã hình thành ở người Việt một thứ nhân sinh quan bao dung, hòa đồng. Đó là sự bao dung, hòa đồng, yêu mến thiên nhiên, vũ trụ; bao dung, hòa đồng trong hệ thống những triết lý khác nhau từng tồn tại lâu dài trong đời sống dân tộc (Phật giáo, Nho giáo, Đạo, Công giáo, tín ngưỡng cổ truyền, tư duy khoa học hiện đại – chủ nghĩa Mác – Lênin…); bao dung, hòa đồng trong các thể chế, quan hệ ứng xử giữa con người, giữa các thế hệ; bao dung, hòa đồng giữa các dân tộc trong lòng đất nước, và các dân tộc trên thế giới; thậm chí, còn là sự bao dung với kẻ thù, với những người có quan hệ sở hữu khác nhau, có quá khứ chính trị đối lập nhau…

… một nhân sinh quan chất phác, hồn nhiên,… một lối sống hòa hợp, bình đẳng với tự nhiên và con người, dung hợp, chấp nhận mọi mặt đối lập tồn tại trong thế giới như là một thực tại tất yếu, vốn có,…, đó là những yếu tố mầm mống triết học cơ bản nhất mà người dân Việt trước Bắc thuộc đã đạt được trên cơ sở các thành tựu văn hóa, văn minh rực rỡ của thời kỳ Đông Sơn [11, tr. 50].

1.2. FOLKLORE VIỆT NAM – KHÁI NIỆM, ĐẶC TRƯNG, CÁC LOẠI HÌNH

1.2.1. Khái niệm

Thuật ngữ Folklore lần đầu tiên được đưa ra trong tạp chí The Athemneum của Anh năm 1846 bởi William J. Thoms (bút danh Ambrose Merton). Bài báo khoa học ngay lập tức gây được tiếng vang và khái niệm này được chấp nhận, trở thành một xu hướng nghiên cứu mới và phát triển rộng khắp. Cũng như nhiều lí thuyết, nhiều tôn giáo, nhiều môn học khác trên thế giới, khi đã lan tỏa trong không gian, thời gian, qua nhiều thực tế khác nhau thì Folklore cũng được hiểu và vận dụng rất khác nhau. Năm 1972, nhân kỉ niệm 100 năm ngày Folklore, người ta thống kê có rất nhiều cách hiểu phong phú, thậm chí đối lập nhau, tranh luận với nhau về Folklore.

Folklore được định nghĩa là “kiến thức của nhân dân”, “trí tuệ của nhân dân” (folk: đại chúng, nhân dân; lore: trí tuệ, trí khôn; Folklore = kiến thức, trí tuệ của nhân dân). Folklore là toàn bộ những sáng tác có tính chất nghệ thuật của nhân dân trong mọi thời đại, tương đương với thuật ngữ văn nghệ dân gian hoặc nghệ thuật dân gian. Hiểu rộng hơn, Folklore là văn hóa dân gian, văn hóa của những con người mộc mạc, bình dị, gần với cộng đồng dân tộc. 

Tại Hội nghị các nhà Folklore học thế giới lần đầu tiên được tổ chức ở Pari (Pháp) vào tháng 9 năm 1937, định nghĩa Folklore được thông qua, đó là: Folklore là khoa học nghiên cứu tất cả những gì có liên quan đến văn hóa vật chất, cấu trúc xã hội, truyền thống dân gian và văn học truyền miệng của nhân dân [95, tr. 77].

Ở Việt Nam, quan niệm Folklore được du nhập vào cùng với việc thành lập Viện Viễn Đông bác cổ đầu thế kỉ XX. Từ đó cho đến năm 1945, nó được hiểu theo nghĩa rộng. Sau năm 1954, nó được hiểu rất hẹp, gần như chỉ nói đến Folklore ngôn từ (Văn học dân gian), cuối những năm 1970, hiểu rộng ra là Nghệ thuật dân gian và hiện nay hiểu tương đương với Văn hóa dân gian. Việc quan niệm rộng hẹp và chuyển ngữ sang tiếng Việt khác nhau như vậy là do sự thay đổi nhận thức của chúng ta về văn hóa dân gian và cũng do sự tiếp thu ảnh hưởng của các quan niệm Folklore từ các trường phái khác nhau trên thế giới.

Trong những năm gần đây, nhiều học giả Việt Nam đã có những chuyên đề, công trình đề cập tới quan niệm, ý nghĩa của Folklore/văn hóa dân gian trong sinh hoạt văn hóa cộng đồng xưa và nay, như Trần Quốc Vượng, Ngô Đức Thịnh, Đinh Gia Khánh v.v…

Tác giả Trần Quốc Vượng quan niệm:

Nói Folklore Việt Nam là nói tổng thể mọi sáng tạo, mọi thành tựu văn hóa của dân gian ở mọi nơi, mọi thời, của mọi thành phần dân tộc đang hiện tồn trên lãnh thổ Việt Nam. Nó có thể là một ngôi đền, một cái đình mà cũng có thể là một mẩu huyền thoại hay một câu chuyện thần kỳ. Nó có thể là một cái lư hương gốm sứ cổ, một cỗ kiệu sơn son thếp vàng ngày xưa mà cũng có thể là một câu tục ngữ cổ, một khúc dân ca… Sáng tạo dân gian bao trùm mọi lĩnh vực đời sống, từ đời sống làm ăn thường ngày (ăn, mặc, ở, đi lại) đến đời sống vui chơi, buông xả (thể thao dân gian, võ, vật, đánh cầu, hát phết), hát hò (hát đò đưa, hò giã gạo, đúm, ví, xoan, ghẹo), đến đời sống tâm linh (giỗ, tế, lễ hội) [95, tr. 124].

Quan điểm của tác giả Ngô Đức Thịnh là: 

Khoa Folklore học tập trung nghiên cứu bộ phận văn hóa nghệ thuật dân gian, đặt trong mối quan hệ hữu cơ với những sáng tạo văn hóa nghệ thuật bác học, chuyên nghiệp, trong đó dòng dân gian là cội nguồn, là cơ tầng của văn hóa dân tộc. Văn hóa nghệ thuật dân gian phân hợp từ ba bộ phận chính, đó là I/ Nghệ thuật ngôn từ; II/ Nghệ thuật diễn xướng dân gian, bao gồm cả lễ hội, nghi lễ được coi như là một loại hình diễn xướng đặc thù và III/ Nghệ thuật tạo hình [95, tr. 128].

Đặc biệt, tác giả Đinh Gia Khánh – một trong những chuyên gia hàng đầu về văn hóa dân gian ở Việt Nam đã đưa ra luận thuyết cơ bản về văn hóa dân gian, đó là: “văn hóa dân gian bao gồm toàn bộ văn hóa vật chất và tinh thần (culture intellectuelle) của dân chúng được tiếp cận dưới giác độ thẩm mỹ (apporoche esthétique)” [54, tr. 19]. Những quan niệm, định nghĩa về văn hóa dân gian và các thành tố văn hóa dân gian mà tác giả Đinh Gia Khánh nêu lên là cơ sở cho các nhà nghiên cứu văn hóa dân gian tham khảo và tiếp tục làm sáng tỏ những vấn đề lý luận cơ bản về Folklore ở Việt Nam.

Tóm lại, ở Việt Nam, Folklore được dịch là văn hóa dân gian bao hàm những ý nghĩa sau: hiểu theo nghĩa rộng là những giá trị vật chất và tinh thần do dân chúng sáng tạo (folk culture); hiểu theo nghĩa hẹp là những sáng tạo của dân chúng mang tính nghệ thuật. 

1.2.2. Đặc trưng

Văn hóa dân gian Việt Nam có truyền thống hình thành, và phát triển từ rất lâu đời, bắt nguồn từ xã hội nguyên thủy. Đến thời kỳ phong kiến tự chủ, cùng với sự ra đời và phát triển của văn hóa bác học, chuyên nghiệp, cung đình thì văn hóa dân gian vẫn tồn tại và giữ vai trò quan trọng đối với sự phát triển của văn hóa cũng như xã hội Việt Nam, đặc biệt là với quần chúng lao động.

Truyền thống lịch sử và xã hội Việt Nam đã quy định những nét đặc trưng của văn hóa nước ta. Đó là văn hóa xóm làng trội hơn văn hóa đô thị, văn hóa truyền miệng lấn át văn hóa chữ nghĩa, ứng xử duy tình nặng hơn duy lý, chủ nghĩa yêu nước trở thành cái trục của hệ ý thức Việt Nam, nơi sản sinh và tích hợp các giá trị văn hóa Việt Nam… Truyền thống đó cũng tạo nên những nét đặc trưng cho Folklore Việt Nam, là tính nguyên hợp, tính tập thể và tính nghiệm sinh.

Tính nguyên hợp của Folklore biểu hiện ở sự hòa lẫn những hình thức khác nhau của ý thức xã hội trong các thể loại của nó. Có thể nói rằng, Folklore là bộ “bách khoa toàn thư” của nhân dân. Tính nguyên hợp về nội dung của Folklore phản ánh tình trạng nguyên hợp về ý thức xã hội thời nguyên thuỷ, khi mà các lĩnh vực sản xuất tinh thần chưa được chuyên môn hoá. Trong các xã hội thời kỳ sau, mặc dù các lĩnh vực sản xuất tinh thần đã có sự chuyên môn hoá nhưng Folklore vẫn còn mang tính nguyên hợp về nội dung. Bởi vì đại bộ phận nhân dân, tác giả văn hóa dân gian, không có điều kiện tham gia vào các lĩnh vực sản xuất tinh thần khác nên họ thể hiện những kinh nghiệm, tri thức, tư tưởng, tình cảm của mình trong Folklore.

Tính nguyên hợp của văn hóa dân gian còn biểu hiện ở chỗ: Văn hóa dân gian không chỉ là nghệ thuật ngôn từ thuần túy mà là sự kết hợp của nhiều phương tiện nghệ thuật khác nhau như âm nhạc, điệu bộ và các hình thức diễn xướng. Sự kết hợp này là tự nhiên, vốn có ngay từ khi tác phẩm mới hình thành. Tính nguyên hợp còn thể hiện ở tính đa chức năng, nó không chỉ là nghệ thuật biểu diễn dân gian mà còn là nghệ thuật tạo hình, hội họa, điêu khắc. Như vậy, trong Folklore, ngôn từ là yếu tố cơ bản nhưng không phải duy nhất.

Biểu hiện cụ thể của tính nguyên hợp là tính biểu diễn. Văn hóa dân gian có ba dạng tồn tại: tồn tại ẩn (tồn tại trong trí nhớ của tác giả dân gian), tồn tại cố định (tồn tại bằng văn tự), tồn tại hiện (tồn tại thông qua diễn xướng). Chính trong biểu diễn, các phương tiện nghệ thuật của tác phẩm văn hóa dân gian mới có điều kiện kết hợp với nhau tạo nên hiệu quả thẩm mỹ tổng hợp. Sự kết hợp này một mặt là biểu hiện của tính nguyên hợp, một mặt là lẽ tồn tại của tính nguyên hợp.

Tính tập thể: Folklore là sáng tác của nhân dân, nhưng không phải tất cả nhân dân đều là tác giả của Folklore. Tính tập thể thể hiện chủ yếu trong quá trình sử dụng tác phẩm, khi nó được mọi người biểu diễn, thưởng thức. Trong quá trình đó, tập thể nhân dân tham gia vào công việc đồng sáng tạo tác phẩm. 

Tính tập thể bắt nguồn từ tính truyền miệng và tính diễn xướng. Sự sáng tác và lưu truyền bằng miệng đã tạo cho tác phẩm dân gian được truyền từ người này sang người khác. Trong quá trình đó, tính tập thể xuất hiện một cách tự nhiên. Tính tập thể biểu hiện ở ba phương diện: Phương diện sáng tác tập thể; phương diện tâm lý, phong cách tập thể; lưu truyền và biểu diễn tập thể. Tác phẩm lưu truyền từ người này sang người khác qua mọi thời đại, mọi vùng đất nước. Tác phẩm dân gian phần lớn là đối thoại, có thể loại đòi hỏi phải có nhiều người tham gia diễn xướng như chèo, tuồng, ca dao dân ca. Phương diện lưu truyền và diễn xướng tập thể làm nảy sinh sáng tác tập thể. Tác phẩm lưu truyền từ người này sang người khác, trong quá trình đó có sự gia công thêm bớt, chắt lọc và loại bỏ những yếu tố không phù hợp, làm cho tác phẩm hòan thiện hơn, hợp lý hơn. 

Tính nghiệm sinh: Folklore nảy sinh và tồn tại như một bộ phận hợp thành của sinh hoạt nhân dân. Sinh hoạt nhân dân là môi trường sống của tác phẩm văn hóa dân gian. Văn hóa dân gian là một thực thể sống, nảy sinh, tồn tại và phát triển gắn với sinh hoạt văn hóa cộng đồng của quần chúng lao động. Vì vậy, khi nhận thức, lý giải các hiện tượng văn hóa dân gian phải gắn liền với môi trường sinh hoạt văn hóa của nó, tức là các sinh hoạt văn hóa của cộng đồng, trong đó cộng đồng gia tộc, cộng đồng làng xã giữ vai trò quan trọng. Folklore cung cấp cho các thành viên trong cộng đồng những tri thức đầu tiên, sâu sắc và đậm đà nhất, nó quy định cho thành viên phải ứng xử thế nào, theo chuẩn mực nào trong cuộc sống. Cộng đồng làng xã hướng thành viên của mình đi tới một niềm tin, say mê lý tưởng, định cho thành viên những quy tắc trong cuộc sống, đồng thời, góp phần nâng cao tâm hồn, giải tỏa tình cảm cho từng cá nhân trong cộng đồng. Như vậy, có thể nói, Folklore đã đi vào tâm hồn, vào sinh hoạt cộng đồng. Người dân vận dụng Folklore trong mọi trường hợp, nhiều khi không chỉ là quy ước mà đã thành những chế tài. Folklore được xem như một cái gì đó làm chuẩn mực để ổn định, để quyết đoán trong cuộc sống cộng đồng, trong lao động sản xuất và trong chiến đấu.

Folklore đã là lợi khí của dân tộc trên suốt cả chặng đường [60, tr. 231].

1.2.3. Các loại hình Folklore Việt Nam 

Hiện nay, ở Việt Nam, các nhà nghiên cứu triển khai công tác sưu tầm, nghiên cứu văn hóa dân gian trên các lĩnh vực sau: Ngữ văn dân gian; Nghệ thuật dân gian; Tri thức dân gian; Tín ngưỡng, phong tục và lễ hội [96, tr. 53].

Các lĩnh vực nghiên cứu trên về văn hóa dân gian nảy sinh, tồn tại và phát triển với tư cách là một chỉnh thể nguyên hợp, thể hiện tính chưa chia tách giữa các bộ phận (ngữ văn, nghệ thuật, tri thức, tín ngưỡng phong tục…), giữa hoạt động sáng tạo và hưởng thụ trong sinh hoạt văn hóa, giữa sáng tạo văn hóa nghệ thuật và đời sống lao động của nhân dân. 

* Ngữ văn dân gian/Văn học dân gian

Văn học dân gian là sáng tác nghệ thuật truyền miệng của các tầng lớp dân chúng, phát sinh từ thời công xã nguyên thủy, phát triển qua các thời kỳ lịch sử cho tới ngày nay. Ở Việt Nam, ba thuật ngữ sau đây được xem là tương đương: Văn học dân gian/sáng tác nghệ thuật truyền miệng của nhân dân/Folklore ngôn từ (Folkore văn học).

Văn học dân gian Việt Nam rất phong phú, đa dạng, hàm chứa bản chất, chức năng, vai trò của nó trong xã hội và trong sinh hoạt cộng đồng. Là một hệ thống ngữ văn, nó vốn đã đa thanh, đa sắc, có yếu tố nghệ thuật trong ngôn từ. Một trong những yếu tố tạo cho ngữ văn dân gian người Việt có tính nghệ thuật bởi nó có yếu tố âm nhạc (nhạc tính trong ngôn từ). Tiếng nói có vần điệu, nhịp điệu, âm thanh, tiết tấu tạo ra đặc trưng cho Folklore ngôn từ Việt Nam mang đậm dấu ấn tộc người Việt.

Ngữ văn dân gian bao gồm nhiều thể loại: Tự sự dân gian (thần thoại, cổ tích, truyền thuyết, truyện cười, ngụ ngôn, vè, sử thi, truyện thơ…; Trữ tình dân gian (ca dao, dân ca); Thành ngữ, tục ngữ, câu đố dân gian. Các thể loại ngữ văn dân gian tạo nên một kho tàng tri thức có giá trị văn hóa của nhân dân được lưu truyền trong đời sống văn hóa tinh thần của các cộng đồng tộc người. Nó đúc kết những kinh nghiệm thực tiễn, những tri thức, những triết lý của con người, phản ánh nhận thức trí tuệ, tư duy của con người đối với thiên nhiên, lao động và các mối quan hệ của con người. Đồng thời chúng là những lời khuyên bảo chân tình, sâu lắng, suy tư, ngẫm nghĩ để có thể ứng xử với lẽ đời, là bài học giáo dục đạo lý, nhân cách cho con người: Lá lành đùm lá rách; Gần mực thì đen, gần đèn thì rạng; Cây có cội, nước có nguồn; Đói cho sạch, rách cho thơm; Lời chào cao hơn mâm cỗ; Một giọt máu đào hơn ao nước lã… hay những triết lý sống sâu sắc qua các truyện cổ tích dân gian: Tấm Cám, Thạch Sanh, Cây Khế…

Một tác phẩm văn học dân gian khởi nguồn từ một cá nhân hoặc một nhóm cá nhân rồi lưu truyền trong dân gian. Trong quá trình lưu truyền, nhân dân tham gia sáng tác lại rồi trở thành tài sản chung của tập thể. 

Văn học dân gian ra đời từ thời kỳ xã hội Cộng sản nguyên thủy, khi con người chưa có chữ viết, và nó vẫn tồn tại, phát triển trong xã hội phân chia giai cấp. Tuy nhiên, càng về sau, khi xã hội đã có sự phân công lao động rạch ròi, khi khoa học phát triển, đặc biệt là khi nền văn học viết ra đời, một số thể loại Văn học dân gian dần mất đi như thần thoại, truyền thuyết. 

* Nghệ thuật dân gian

Nghệ thuật dân gian bao gồm: Nghệ thuật tạo hình dân gian (kiến trúc dân gian, hội họa dân gian, trang trí dân gian…); nghệ thuật biểu diễn dân gian (âm nhạc dân gian, múa dân gian, sân khấu dân gian, trò diễn…).

Nghệ thuật tạo hình dân gian được nảy sinh trong các điều kiện, môi trường và thực tiễn lao động của con người. Nghệ thuật tạo hình dân gian rất phong phú, đa dạng, tham gia vào mọi lĩnh vực đời sống của con người, từ chốn linh thiêng đền, chùa, miếu, mạo đến công cụ, vật dụng hàng ngày như trang phục, trang sức, dao kéo, bát đĩa… Nghệ thuật tạo hình dân gian nảy sinh từ môi trường tự nhiên, lao động, xã hội và trở về với cuộc sống của con người để thực hiện chức năng nội sinh là phản ánh, giáo dục thẩm mỹ cho con người.

Nghệ thuật tạo hình dân gian với bốn loại hình: điêu khắc, kiến trúc, hội họa, mỹ nghệ thủ công đã góp phần nuôi dưỡng tâm hồn, niềm vui cho con người bằng cái đẹp của đường nét, hình khối, màu sắc, ánh sáng và quy luật xa gần [7, tr. 455].

Ta có thể bắt gặp nghệ thuật tạo hình dân gian trong các hình tượng được chạm khắc trên trống đồng Đông Sơn, hệ thống nhà mồ của người Tây Nguyên, tranh dân gian Đông Hồ, đồ gốm Bát Tràng…

Nghệ thuật biểu diễn bao gồm các loại hình nghệ thuật có đặc tính chung là biểu diễn có tính nghệ thuật. Những loại hình đó là: hát, múa, nhạc, trò diễn, sân khấu. Nếu như nghệ thuật tạo hình dân gian phải dựa vào vật thể (gỗ, đá, tre, nứa, giấy, lụa, kim khí…) để phản ánh hiện thực thì nghệ thuật biểu diễn dân gian chỉ cần dựa vào bản thân con người diễn xướng (lời ca, điệu múa, biểu diễn sân khấu…), do vậy, tác phẩm nghệ thuật tạo hình có thể lưu lại dưới dạng vật thể (nếu được bảo quản tốt) còn tác phẩm nghệ thuật biểu diễn dân gian được lưu lại cho đời sau chủ yếu qua trí nhớ của con người.

Nghệ thuật biểu diễn dân gian có vị trí quan trọng trong chỉnh thể nguyên hợp văn hóa dân gian. Các thành tố của văn hóa dân gian như văn học, âm nhạc, nghệ thuật tạo hình, nghệ thuật sân khấu, tục lệ, nghi thức, trò chơi, hội lễ… đều có thể góp phần vào nghệ thuật biểu diễn. Đặc điểm quan trọng của nghệ thuật biểu diễn dân gian thể hiện ở chỗ nó là một chỉnh thể bao gồm nhiều yếu tố, trong đó có hai yếu tố quan trọng và gần gũi với nhau là hát và múa: hát biểu hiện giai điệu, âm thanh, còn múa biểu hiện tiết tấu, nhịp điệu [54, tr. 114]. 

Có thể kể ra rất nhiều loại hình hát, múa thuộc nghệ thuật biểu diễn dân gian: hát xẩm, hát xoan, hát quan họ, hát ví dặm…; múa xòe vòng của người Thái, múa lâm thôn của người Khmer, múa cờ lệnh (hội Gióng) của người Việt, múa quạt của người Chăm, múa sạp của người Mường…

* Tri thức dân gian

Tri thức dân gian bao gồm: Tri thức về môi trường tự nhiên (địa lý, thời tiết, khí hậu…); tri thức về con người (bản thân): y học dân gian và dưỡng sinh dân gian; tri thức ứng xử xã hội (ứng xử cá nhân và ứng xử cộng đồng); tri thức sản xuất (kỹ thuật và công cụ sản xuất).

Theo quan niệm của giới Folklore học thì văn hóa dân gian là kho tàng tri thức và toàn bộ giá trị tri thức của dân chúng được lưu truyền từ đời này sang đời khác. Tri thức với nghĩa rộng là tổng giá trị sáng tạo văn hóa vật chất, văn hóa tinh thần của con người, trong đó có các thành tố văn hóa dân gian (văn học, âm nhạc, hội họa, điêu khắc, sân khấu, trò diễn…). Quá trình phát triển tư duy tri thức của con người đồng thời cũng là quá trình sáng tạo tri thức dân gian trên nhiều lĩnh vực. Trong trường hợp này, tri thức dân gian được hiểu theo nghĩa hẹp, bao gồm: cách ăn, mặc, ở, đi lại, chữa bệnh, thời tiết, thời vụ… Tri thức dân gian phát triển, luôn gắn với đặc điểm môi trường, từ đó tạo ra những đặc trưng riêng của từng tộc người, từng vùng miền. Những đặc trưng đó được thể hiện qua cách ăn, mặc, ở…, cho nên, mỗi tộc người đều có dấu ấn riêng của mình.

Tri thức dân gian được thể hiện qua các loại đồ dùng để phục vụ con người trong cuộc sống, trong lao động, mà mỗi loại ấy có vai trò tác động tới sự sinh tồn của chính con người. Mặt khác, yếu tố môi trường thiên nhiên cũng có vai trò không nhỏ cho sự phát triển tri thức dân gian. Chính môi trường tự nhiên đã tác động vào bộ não, vào sự vận động của tư duy, tri thức để thích nghi, ứng xử, tận dụng và đối phó với tự nhiên. 

… việc ăn, mặc, ở, đi lại, chữa bệnh của con người cũng chính là thích nghi, ứng xử, đáp ứng nhu cầu của bản thân. Đồng thời, con người cũng thích nghi, ứng xử, đối phó với môi trường tự nhiên để sáng tạo ra cách ăn, mặc, ở, đi lại, chữa bệnh phù hợp với từng hòan cảnh cụ thể. Cái gì có lợi thì tận dụng tối đa, cái gì bất lợi thì phải đối phó, chống đỡ, do vậy, khi tri thức càng phát triển thì con người càng có điều kiện biến cái phải đối phó trở thành cái tận dụng thuận lợi [54, tr. 580].

Tri thức dân gian có vai trò quan trọng trong cuộc sống lao động, chiến đấu với thiên nhiên, với bệnh tật của con người. Tri thức dân gian cũng nhằm mục tiêu vươn tới một cuộc sống ấm no, hạnh phúc, đó là: ăn ngon, mặc đẹp, sống khỏe để phát triển toàn diện, để hưởng thụ giá trị vật chất và tinh thần do chính con người tạo dựng nên.

* Tín ngưỡng, phong tục, lễ hội

Thứ nhất, là tín ngưỡng dân gian.

Tín ngưỡng dân gian là loại hình tín ngưỡng do chính nhân dân – trước hết là những người lao động sáng tạo ra trên cơ sở những tri thức phản ánh sai lạc dưới dạng kinh nghiệm cảm tính từ cuộc sống thường nhật của bản thân mình [75, tr. 8].

Dựa vào các cơ sở: (1) đặc trưng và thực chất của tôn giáo, tín ngưỡng; (2) tôn giáo, tín ngưỡng là một hiện tượng xã hội; (3) tôn giáo, tín ngưỡng mang tính lịch sử và kế tục lịch sử; (4) tính tương quan giữa các hình thức tôn giáo, tín ngưỡng, các nhà khoa học đã phân loại thành các hình thức tín ngưỡng sau:

1/ Thờ cúng tổ tiên (gia tộc, dòng họ, quốc gia), tô tem giáo.

2/ Tín ngưỡng vòng đời người: nghi lễ sinh đẻ (thờ bà Mụ…); nghi lễ cưới xin (thờ ông Tơ, bà Nguyệt…); thờ thần bản mệnh; tang ma và thờ cúng người chết.

3/ Tín ngưỡng nghề nghiệp: tín ngưỡng nông nghiệp (nghi lễ phồn thực; Tứ pháp; thần Nông…); thờ Thánh sư (Tổ nghề thủ công); thờ Thần tài (nghề buôn); các tín ngưỡng của ngư dân (thờ cá Ông, thờ Cô bác…)

4/ Tín ngưỡng thờ thần: Thành hòang làng, thổ thần, thổ công, thổ địa…; Đạo Mẫu; Thờ các anh hùng dân tộc [99, tr. 17].

Các tín ngưỡng dân gian bao giờ cũng có một hệ thống chuẩn quan niệm bất thành văn đòi hỏi người có niềm tin vào nó phải thực hiện. Trên ý nghĩa nhất định, đó là những chuẩn mực sống, ứng xử của nền đạo đức tương ứng. Những chuẩn mực của tín ngưỡng dân gian không những có giá trị giáo dục to lớn đối với người có đức tin, mà trong nhiều trường hợp, còn là những đòi hỏi, những chuẩn mực chung của toàn xã hội. Trong không ít trường hợp, tín ngưỡng dân gian không chỉ sản sinh ra các quan niệm đạo đức, mà còn có khả năng điều hành việc thực hiện những chuẩn mực đạo đức đó. 

Nếu các chuẩn mực đạo đức đòi hỏi mỗi công dân tự nguyện thực hiện và dư luận xã hội đóng vai trò khuyến khích hoặc trừng phạt đối với những vi phạm, thì tín ngưỡng dân gian lại thực hiện sự trừng phạt đó mang tính thần bí. Sự vi phạm những răn dạy về đạo đức sẽ bị trừng phạt của thần thánh, của thượng đế tối cao, của luật đền bù nhân quả, do vậy, tín ngưỡng dân gian có vai trò không nhỏ trong việc điều chỉnh hành vi của mỗi cá nhân, đòi hỏi họ phải thực hiện nghĩa vụ đạo đức, nhờ thế con người sống với nhau tốt đẹp hơn, cuộc sống cộng đồng cũng tốt đẹp hơn [75, tr. 18].

Thứ hai, là phong tục dân gian.

“Phong” là nền nếp đã lan truyền rộng rãi, “Tục” là thói quen lâu đời. Nội dung phong tục bao hàm mọi mặt sinh hoạt xã hội…. Phong tục là toàn bộ những hoạt động sống của con người được hình thành trong quá trình lịch sử và ổn định thành nề nếp, được cộng đồng thừa nhận, truyền từ thế hệ này sang thế hệ khác. Phong tục không mang tính cố định, bắt buộc như nghi thức, nghi lễ, nhưng cũng không tùy tiện như hoạt động sống thường ngày. Nó trở thành một tập quán xã hội tương đối bền vững và tương đối thống nhất.

Phong tục có thể ở một dân tộc, địa phương, tầng lớp xã hội hay thậm chí một dòng họ, gia tộc. Phong tục là một bộ phận của văn hóa và có thể chia thành nhiều loại: hệ thống phong tục liên quan đến vòng đời của con người, như phong tục sinh đẻ, trưởng thành, cưới xin, mừng thọ và lên lão…; hệ thống phong tục liên quan đến hoạt động của con người theo chu kỳ thời tiết trong năm; hệ thống phong tục liên quan đến chu kỳ lao động của con người…

Phong tục có thứ trở thành luật tục, ăn sâu, bén rễ trong nhân dân một cách bền chặt, có sức mạnh hơn cả những đạo luật. Trong truyền thống văn hóa của dân tộc Việt Nam, có rất nhiều thuần phong mỹ tục cần thiết cho đạo lý làm người, kỷ cương xã hội. 

Thứ ba, là lễ hội dân gian.

Theo cách hiểu chung nhất, lễ hội là nơi sinh hoạt văn hóa mang tính cộng đồng (có nhiều người tham gia), song, thực chất, khái niệm “lễ hội” bao hàm trong nó hai nội dung Lễ Hội. Lễ là phần nghi lễ mang tính tôn giáo, có tính cách tôn nghiêm để tưởng niệm, tưởng nhớ công lao, sự tích, chủ thể mà lễ hội đó đề cập đến; Hội là phần liên hoan, tổ chức các trò chơi dân gian giải trí cho cộng đồng, cho những người tham gia “lễ” như: vật, võ, đua thuyền, múa, đánh đu, chọi gà, cờ ném, ném còn… Trong lễ hội, phần lễ là phần gốc rễ, chủ đạo, phần hội là phần phái sinh, tích hợp.

Lễ hội dân gian là một sản phẩm và biểu hiện của một nền văn hóa, tham gia lễ hội cũng là cách ứng xử văn hóa của một con người hay một cộng đồng người nhất định nào đó. Thông qua lễ hội, chúng ta có thể thấy được những bối cảnh sinh thái nhân văn của một tộc người (không gian lễ hội: đồi, thung lũng, hang động, bờ sông, cánh đồng…), có thể thấy những quần thể sinh – động vật trong lễ hội (cây nêu, trâu, bò, lợn, gà…), có thể hiểu được chủ thể của lễ hội (cá nhân, gia đình, dòng họ, làng xóm, vùng, tộc người…), cũng có thể hiểu được loại hình của lễ hội (mùa xuân, nông nghiệp, phồn thực, huyền thoại, huyền tích, lịch sử, tôn giáo, tín ngưỡng…), và hiểu được điển tích của lễ hội (tổ tiên, tổ nghề, anh hùng dân tộc…).

Lễ hội dân gian mang rất nhiều giá trị: là dịp biểu dương sức mạnh cộng đồng và là chất kết dính tạo nên sự cố kết cộng đồng; lễ hội bao giờ cũng hướng về nguồn, gắn với hành hương – du lịch; lễ hội thuộc về phạm trù cái “thiêng” của đời sống tâm linh, đối lập và cân bằng với cái trần tục của đời sống hiện thực; lễ hội thấm đượm tinh thần dân chủ và nhân bản sâu sắc bởi nó là hình thức sinh hoạt tín ngưỡng – văn hóa của cộng đồng; lễ hội không chỉ là tấm gương phản chiếu nền văn hóa dân tộc mà còn là môi trường bảo tồn, làm giàu và phát huy nền văn hóa dân tộc ấy [99, tr. 342-345].

1.3. FOLKLORE – MỘT HÌNH THỨC THỂ HIỆN ĐỘC ĐÁO CỦA NHÂN SINH QUAN NGƯỜI VIỆT 

Folklore là một loại hình văn hóa được sáng tạo và lưu hành trong dân gian qua nhiều thế hệ. Nó xuất hiện cùng với sinh hoạt của đời sống thường ngày, trong lao động, trong đời sống tình cảm, trong các mối tương quan cá nhân – xã hội. Bản chất của Folklore là bình dân vì nó phản ánh nếp sống và tâm tình của dân gian, tình cảm gia đình, quê hương, đất nước… Chính vì vậy, Folklore không được nhìn theo đúng chân giá trị của nó, và khi nghiên cứu về tư tưởng triết học của người Việt nói chung, nhân sinh quan người Việt nói riêng, chúng ta chỉ thường chú ý đến các tác phẩm thành văn, bác học mà ít chú trọng hoặc bỏ quên mảng Folklore, bỏ đi những minh triết ẩn chứa trong kho tàng Folklore từ văn hóa vật thể đến văn hóa phi vật thể. Chẳng hạn, truyện Âu cơ sinh ra bọc trăm trứng, nở ra trăm con (dòng giống chim lạc hồng), rồi 50 con theo mẹ lên núi, 50 con theo cha xuống biển đã làm nên nền tảng cho triết lý về cái gọi là “nhất âm nhất dương chi vị đạo” (một âm một dương gọi là đạo). Hình tượng trống đồng của người Việt được xem là đỉnh cao của triết lý nhân sinh “Thái Hòa”, trên đó, các hình người và chim muông cùng hợp nhau ca múa trong cảnh quện hòa nhất,…

Các triết lý nhân sinh đó, theo dòng chảy thời gian và văn hóa, đã được chọn lựa, sắp đặt, sửa chữa, tổng hợp lại từ những yếu tố rời rạc thành những truyền thuyết, huyền thoại, điển tích có cấu trúc hòan chỉnh, có tầm vóc phổ quát hơn, công việc tổng hợp này đi đôi với những kinh nghiệm sống của cả cộng đồng. Song, vì Folklore là những suy tư “trung thực và trực quan” miêu tả nếp sống, tình cảm của con người qua mọi thời đại, nên khi đi tìm những triết lý nhân sinh ẩn mình trong đó, đôi khi chúng ta rơi vào hai trạng thái: (1) cảm thấy mơ hồ, võ đoán hoặc chỉ tìm thấy trong kho tàng Folklore những gì minh chứng cho những nhận định có sẵn của người Việt về các công việc như kinh nghiệm sản xuất nông nghiệp, tinh thần hiếu học, tính châm biếm,… (2) đi quá xa, vẽ ra một hệ thống triết lý đầy đủ, phổ quát với những phạm trù vũ trụ luận, nhân sinh quan mà chỉ dựa trên một vài loại hình của Folklore.

Nói cho cùng, Folklore không thể dựng nên một hệ thống triết lý, những giáo điều, những qui luật triết học để con người lấy đó làm kim chỉ nam/phương pháp luận cho mọi hành động. Song, trong thứ tư tưởng dường như là mơ hồ nhưng đầy ẩn ý mà chúng tôi khảo cứu qua các lễ hội, tín ngưỡng dân gian Việt Nam (ở chương sau), có thể khẳng định rằng, Folklore không “chở suông” những tâm, ý, trí, tình… của người Việt, mà nó chất chứa những tình cảm, tâm tư của người Việt, từ đó, xây dựng nên một nhân cách, một nhân chủ của vũ trụ.

Muốn hiểu minh triết Việt nói chung, nhân sinh quan người Việt nói riêng, chúng ta phải tìm kiếm và sưu tầm những minh triết uyên nguyên hiện diện khắp ngõ ngách đời sống nhân sinh và trong mọi tầng nền của văn hóa Việt Nam trên nhiều phương diện: phong tục, tập quán, lễ hội; tín ngưỡng/tôn giáo; ngôn ngữ; văn học; nghệ thuật (kiến trúc, hội họa, điêu khắc, sân khấu, âm nhạc…), trong đó, thể hiện sự suy tư, đúc kết kinh nghiệm, tri thức của con người về những mặt, những sự kiện, hiện tượng riêng lẻ trong đời sống. Những triết lý nhân sinh đó có thể rời rạc, tản mạn, không liên kết chặt chẽ, lôgíc với nhau, nhưng chúng vẫn là những triết lý sâu sắc của con người về chính cuộc sống của họ, về thế giới xung quanh họ – cái mà triết học gọi là nhân sinh quan và vũ trụ luận. 

Vì Folklore là một chỉnh thể gồm nhiều thành tố, do vậy, để chứng minh nét độc đáo của nhân sinh quan người Việt qua tất cả các loại hình Folklore là một việc làm rất công phu, đòi hỏi nhiều thời gian và công sức. Trong Folklore, loại hình được nhiều nhà khoa học nghiên cứu nhất chính là văn học dân gian, vì thế, trong giới hạn của một tiểu tiết, chúng tôi muốn khái quát những nét độc đáo trong triết lý nhân sinh của người Việt qua loại hình này. Còn những dấu chỉ minh triết Việt trong các loại hình Folklore ít được khai thác về mặt triết học như lễ hội dân gian và tín ngưỡng dân gian sẽ được chúng tôi tìm hiểu và trình bày trong chương 3 của luận án. Do vậy, dưới đây, là những nét độc đáo trong nhân sinh quan người Việt qua huyền sử Tiên – Rồng và qua một số tục ngữ, ca dao của người Việt.

Trước hết, từ xa xưa người Việt đã ý thức và khẳng định rõ mình là con cháu của một tộc người khôn ngoan, danh giá. Ý thức đó đã được người Việt mã hóa trong huyền thoại Con Rồng cháu Tiên. Đằng sau sự kiện mang tính huyền học về Âu Cơ và Lạc Long Quân, ẩn chứa triết lý nhân sinh của cha ông chúng ta trên những chiều cạnh sau: 

Tiên Rồng là hai nhân tố trái ngược nhau (Tiên ở trên đất, rồng ở dưới nước) nhưng lại có thể giao hòa làm một như Âm và Dương, Nam và Nữ, Hữu và Vô; Nghịch và Thuận, Sinh và Tử,… Hai sự vật/yếu tố đối nghịch nhau mà kết hợp làm một sẽ đi đến mâu thuẫn, đỉnh điểm của nó sinh ra ly biệt, mâu thuẫn sẽ được hóa giải. Nhưng sự hóa giải đó tạo nên sự sinh sôi/nảy nở cái mới, như vậy, sự “đấu tranh” của hai mặt đối lập là để đi tìm sự thống nhất, hài hòa và phát triển, chứ không triệt tiêu cái đối lập. Người ở trên núi, người ở dưới nước vốn khác biệt nhau (lưỡng phân), hợp lại rồi có con (lưỡng hợp), nhưng vốn tương khắc, nên phải biệt ly, người đem 50 con về thủy phủ, người đem 50 con lên núi, song dù lên núi hay xuống nước, hễ có việc gì thì cùng bảo nhau làm, cùng giúp nhau, không bỏ nhau được (xung đột được giải quyết để đi đến cái mới chứ không là để triệt tiêu cái đối lập) [39, tr. 52].

Huyền sử Con Rồng cháu Tiên còn cho thấy triết lý nhân sinh đan xen giữa Người Thần, song, đối với người Việt, trong hai yếu tố NgườiThần đó, yếu tố Người được đề cao, nổi trội hơn yếu tố Thần – thể hiện thứ triết lý sống đầy tính hiện thực, nhân văn. 

Điểm độc đáo và sâu lắng trong triết lý nhân sinh qua truyền thuyết Tiên – Rồng còn ở điểm: nếu triết học (siêu hình học truyền thống phương Tây) từ lâu được đồng nhất với việc truy tìm bản chất của vạn vật, thì huyền thoại Tiên – Rồng của người Việt không chỉ nhằm truy tìm bản chất sự vật theo đường hướng đó, vô tình hay hữu ý, trong khuôn khổ kiến thức về bản thể vũ trụ vạn vật, chúng ta lại thấy nổi lên một ưu tư chính yếu là về cuộc sống và thân phận con người. Như vậy, cuộc sống con người nằm trong mối tương giao với vũ trụ, với thế giới tự nhiên, nối kết Con người với TrờiĐất. Tâm thức Đất – Trời – Người đã theo suốt người Việt và là một chủ đề nổi bật trong nhiều truyền thuyết khác sau này [39, tr. 53].

Ngoài ý nghĩa nêu trên, huyền sử Tiên – Rồng còn mang thông điệp kiêu hãnh về dòng giống người Việt, niềm tự hào về một thời kỳ oai hùng lập nước, khẳng định chủ quyền chính trị cũng như ý thức bảo vệ chủ quyền ấy. Tinh thần gia tộc, tình nghĩa đồng bào, coi nhau như anh em được khẳng định không chỉ ở yếu tố cùng một huyết thống, cùng một mẹ (cùng một bọc mà ra), mà còn là mối quan hệ có tính chất thần bí vì cùng sinh ra từ “một bọc trăm trứng”. Chính trong cái tinh thần thần bí ấy mà mối liên hệ, tình đoàn kết của người Việt sẽ mạnh hơn, bền chặt hơn khiến người Việt sẽ liên kết nhau lại mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng, thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ có thể chiến thắng kẻ thù lớn mạnh hơn mình gấp trăm vạn lần.

Trong truyền thuyết, truyện cổ tích, tục ngữ, ca dao, tập tục của người Việt không thiếu những cốt chuyện phản ánh triết lý nhân sinh. Mỗi câu ca dao, tục ngữ đều là một châm ngôn về con người, về cuộc sống, về cách xử thế hàng ngày, những lời khuyên khôn ngoan về ứng xử với thiên nhiên, xã hội và con người. Thứ văn chương bình dân đó đã thể hiện “túi khôn” của người Việt, cách sống, cách nghĩ của cả một dân tộc. Qua bao thăng trầm của lịch sử, người Việt đã trân trọng lưu giữ và truyền lại những câu chuyện đầy mầu huyền thoại như vậy mà không hề có ý định sửa chữa hay thay thế nó bằng một ý thức hàn lâm, chẳng nhẽ, chúng ta lại không có một cảm quan nhậy bén nào để tìm ra những giá trị minh triết ẩn tàng trong kho nghiệm sinh đó? 

Thứ đến, đề tài nổi bật nhất trong nhân sinh quan của người Việt là mối tương giao giữa con người với giới tự nhiên và con người với nhau trong cuộc sống gia đình và trong cộng đồng xã hội. 

Về mối quan hệ con người với giới tự nhiên:

Đối với người Việt, giới tự nhiên được đồng nhất với “Ông Trời”, và khái niệm “Trời” của người Việt hiển thị ba ý nghĩa rõ rệt sau đây: 

Một là, thế giới thiên nhiên vật lý (mây, mưa, sấm, chớp…). Trong tục ngữ ca dao của người Việt có rất nhiều câu ca nói lên sự yêu mến, đề cao, gắn bó với thiên nhiên (trời – đất) của người Việt: Gió thổi là chổi trời; Nước chảy đá mòn; Đố ai đếm được lá rừng, để ta khuyên gió, gió đừng rung cây; Trông trời, trông đất, trông mây… 

Hai là, nhân cách hóa ông trời, xem đó là một lực lượng thiện, che chở, bảo vệ chúng sinh, trừng phạt kẻ ác và nuôi dưỡng vạn vật (Đèn trời soi xét; Ông trời có mắt; Ăn ở xởi lởi thì trời cởi cho/Ăn ở quanh co trời gò của lại; Ơn trời mưa nắng phải thời/Nơi thì bừa cạn nơi thời cày sâu/Công ơn chẳng quản bao lâu/Ngày nay nước bạc, ngày sau cơm vàng/Ai ơi chớ bỏ ruộng hoang/Bao nhiêu tấc đất tấc vàng bấy nhiêu; Lạy trời mưa xuống/Lấy nước tôi uống/Lấy ruộng tôi cày; Làm một cái thang/Ba mươi sáu nấc/Bắc tự dưới đất/Lên hỏi ông trời/Hỏi thăm duyên nợ/Để đời về sau…). Do đó, giới tự nhiên (Trời) còn là biểu tượng thờ cúng của nhiều loại hình tín ngưỡng dân gian của người Việt (thần Sấm, Chớp, Mây, Mưa – hệ thống Tứ pháp: Vân, Vũ, Lôi, Điện). Trời – Đất gắn bó với con người như Cha với Mẹ (Trời là Cha, Đất là Mẹ).

Ba là, quan hệ Người – Giới tự nhiên (Trời) được nâng lên và khái quát hóa trong triết lý Tam tài của người Việt (Thiên – Địa – Nhân), trong đó con người là khâu trung gian nối Trời với Đất. Con người, Trời, Đất là ba yếu tố cơ bản hợp thành một vũ trụ luận phổ thông của người Việt. Đất đi đôi với Trời trong mối tương giao với Người (Địa linh nhân kiệt; Trời chu đất diệt; Trách chàng Từ thức vụng suy/Cõi tiên chẳng ở về chi cõi trần…) [77, tr. 47].

Như vậy, Thiên/Trời là những phạm trù rất gần gũi thân quen trong minh triết nhân sinh của người Việt. 

Minh triết Việt về mối quan hệ con người với thiên nhiên như đã phân tích ở trên đã trang bị cho người Việt một sự nhận thức bước đầu về tự nhiên, biết nắm lấy cái bản thể cốt lõi của thiên nhiên mà hành động cho phù hợp với cuộc sống mưu sinh của mình. Người Việt đã vận dụng những tri thức về tự nhiên đó để vượt lên trên, làm chủ và tự do trước thiên nhiên, để biết phải xây nhà theo hướng nào có lợi cho sức khỏe, biết tự điều hòa khí âm khí dương, ái, ố, hỉ, nộ trong con người sinh học của mình để giống với tự nhiên, hòa quện với thiên nhiên thành một thể thống nhất, khiến cho sức khỏe được nâng lên. Người Việt biết trồng cây gì, nuôi con gì cho phù hợp với thiên nhiên khí hậu. Mặt khác, khi người Việt đã biết thích ứng với tự nhiên, chinh phục, cải tạo đến một mức độ nhất định đối với tự nhiên, người Việt trở nên kiên cường hơn, tính cách linh hoạt, lối sống năng động hơn trước những biến đổi của thiên nhiên, biết khắc phục và kìm hãm thiên tai hơn so với con người ở những nơi khác khi được thụ hưởng điều kiện thiên nhiên thuần hậu [77, tr. 49-50].

Về mối quan hệ con người – con người trong gia đình, xã hội

Đối với người Việt nói riêng, nội dung thâm sâu của đạo lý làm người đã vượt lên trên các tập tục luân lý hình thức thể hiện qua cốt chuyện Đầm nhất dạ, qua thái độ của Công chúa Tiên Dung và Chử Đồng Tử. Người Việt rất tôn trọng và đề cao hiếu đễ, nhân nghĩa, nhưng người Việt không ngu trung, ngu hiếu. Uy quyền của nhà vua là lớn đấy nhưng không phá nổi tập quán “phép vua thua lệ làng”, “con hơn cha là nhà có phúc”. Người Việt coi trọng chữ Tài, chữ Đức hơn lệ cha truyền con nối.

Trong các câu chuyện Đầm nhất dạ, Trầu Cau, Âu cơ và Lạc Long Quân, chúng ta đều thấy toát lên vai trò chủ động của người phụ nữ trong việc quyết định hôn nhân, sinh con đẻ cái, quản lý nếp sống gia đình – nền tảng của xã hội Việt Nam – đây cũng là dấu tích chứng minh rõ ràng chỗ đứng bình đẳng, đôi lúc còn ưu thế của người phụ nữ trong nếp sống hằng ngày và trong sinh hoạt xã hội, khiến các nhà văn hóa học đi đến khẳng định, văn hóa của người Việt có phần thiên sang Mẫu tính/Âm tính. Tính Mẫu có phần nổi trội đó là cơ sở tâm lý cho sự hình thành lối sống linh hoạt, du di, xuề xoà, tương đối, “chín bỏ làm mười” của người Việt. Nguyên tắc sống trọng tình, thiên về mẫu tính là cơ sở tâm lý cho sự hình thành một cuộc sống hòa thuận, khoan dung, độ lượng trong quan hệ xã hội. Và phương thức đối nhân xử thế của người Việt là coi trọng đạo đức, trọng lễ nghĩa (Tiên học Lễ hậu học Văn; Chữ Tâm kia mới bằng ba chữ Tài), trọng danh hơn lợi. Trong quan hệ xã hội, người Việt vẫn coi trọng tình nghĩa hơn tiền bạc, trọng chữ Tín, chữ Trung, ghét thói trọc phú khoe khoang, tôn trọng bậc thức giả, tôn sư trọng đạo: Muốn con hay chữ thì yêu lấy thầy… [39, tr. 54].Nói chung, mối quan hệ con người trong xã hội được đặt trên nền tảng đạo đức luân lý với sự tự chế ngự bên trong và sự kiểm soát của lương tâm, do đó, người Việt sống với nhau đều chịu sự ràng buộc bởi đạo đức, tình liên đới và tính nhân văn.

Nói tóm lại, việc trình bày nhân sinh quan của người Việt như trên để diễn tả các chiều kích triết Việt, không chỉ theo phạm trù bản thể về sự hiểu biết thế giới vật chất mà cả về cuộc sống và thân phận con người. Qua những dấu chỉ về các vấn đề nhân sinh đó, chúng ta không thấy một vực thẳm quá cách biệt sâu xa về tư tưởng giữa một bên là nghiệm sinh và một bên là học thuyết. Có khác nhau chăng là ở bề ngoài hình thức, một bên thì nôm na, một bên thì chữ nghĩa, nhưng xét cho cùng, đều nhằm đến lý giải những “vấn đề muôn thuở” của con người.

Kết luận chương 2 

Trong chương 2, luận án tập trung vào phân tích và làm rõ các vấn đề lý thuyết liên quan tới:

1. Nhân sinh quan là quan điểm, cách nhìn nền tảng về mục đích, ý nghĩa của cuộc đời, nó quyết định mục đích của các hoạt động thực tiễn và định hướng con đường nhân sinh, nó cũng quyết định khuynh hướng giá trị và thái độ sống của con người. Lịch sử phát triển của nhân sinh quan đi từ nhân sinh quan thần thoại, nhân sinh quan tôn giáo đến nhân sinh quan triết học, mà đỉnh cao là nhân sinh quan triết học Mác – Lênin.

2. Nhân sinh quan người Việt là những quan niệm về cuộc sống, gắn với các điều kiện nông nghiệp, nông thôn, nông dân Việt Nam, phản ánh mối quan hệ của người Việt trong các mối quan hệ: lao động – sản xuất, môi trường thiên nhiên, môi trường xã hội, gia đình, dòng tộc, họ hàng…, trong đó, nổi bật là lối sống trọng nghĩa – tình, tinh thần hòa đồng, bao dung… Các triết lý nhân sinh của người Việt đều giải đáp những vấn nạn mà họ gặp phải trên con đường dựng nước và giữ nước. Nhân sinh quan người Việt đã tiếp thu nhiều yếu tố trong triết lý nhân sinh của hai nền văn hóa Ấn Độ và Trung Hoa qua hệ thống các học thuyết triết học của nó như Phật giáo, Đạo giáo, Nho giáo, và thường được biểu đạt qua hai dòng: văn hóa bác học hàn lâm (Academic) và văn hóa dân gian (Folklore).

3. Đối với người Việt Nam, nhân sinh quan được thể hiện trong tất cả các lĩnh vực của đời sống xã hội, trong đó, đáng chú ý là nó được thể hiện một cách độc đáo qua Folklore. Folklore là kho tàng văn hóa dân gian vô cùng phong phú, gồm nhiều thành tố như văn học dân gian, nghệ thuật dân gian, tri thức dân gian, tín ngưỡng, phong tục, lễ hội… Các thành tố của Folklore đều in đậm “trí tuệ”, phản ánh tư duy của người Việt về con người và xã hội. Có thể nói, Folklore là một hình thức thể hiện độc đáo của nhân sinh quan người Việt, bởi Folklore xuất hiện trong sinh hoạt thường ngày, trong lao động sản xuất, trong đời sống tình cảm, trong các mối tương quan cá nhân – xã hội…, phản ánh nếp sống và tâm tình của dân gian… Nhiều tầng văn hóa đã lắng đọng trong Folklore, và sau một quá trình “nhào nặn”, biến đổi lâu dài, đã tạo nên một truyền thống nhất định của người Việt, có nội dung tư tưởng sâu sắc, bền vững qua không gian và thời gian.

II. NHÂN SINH QUAN NGƯỜI VIỆT QUA MỘT SỐ LỄ HỘI VÀ TÍN NGƯỠNG DÂN GIAN – GIÁ TRỊ VÀ HẠN CHẾ

Lễ hội dân gian và tín ngưỡng dân gian là những loại hình Folklore “động”, bao chứa cả các giá trị vật thể và phi vật thể, hơn nữa, đây là hai loại hình văn hóa dân gian mà trong đó “hội tụ” gần như đầy đủ các loại hình văn hóa dân gian khác từ tri thức dân gian (tri thức về thời tiết, khí hậu, tri thức về ứng xử cộng đồng…) đến nghệ thuật dân gian (âm nhạc, múa, điêu khắc, kiến trúc…) và diễn xướng dân gian (trò diễn, nghi lễ…).

Điều đó thể hiện sự đặc sắc của lễ hội dân gian và tín ngưỡng dân gian Việt Nam. Cũng cần phải thấy rằng, nếu như tư tưởng, nếp nghĩ của người Việt trong một số loại hình Folklore được ghi lại bằng văn bản (văn học dân gian), hoặc được lưu giữ trên hiện vật (kiến trúc, điêu khắc…) thì tín ngưỡng và lễ hội là những loại hình Folklore mà “tư tưởng” lại được thể hiện thông qua hành vi, do vậy, việc xác định nhân sinh quan của người Việt qua các loại hình này càng trở nên khó khăn bội phần, song, đó lại là những giá trị mà chúng ta cần khai thác để bổ sung cho kho tàng tư duy của dân tộc. Trong giới hạn của luận án, chúng tôi muốn đi sâu tìm hiểu những triết lý nhân sinh của người Việt ẩn mình trong một số lễ hội và tín ngưỡng, để qua đó, tìm ra được những tư tưởng triết học bình dân của cha ông ta thời xưa, trở thành những giá trị cốt lõi trong bảng giá trị của người Việt Nam hiện nay.

2.1. NHÂN SINH QUAN NGƯỜI VIỆT QUA MỘT SỐ LỄ HỘI DÂN GIAN 

2.1.1. Triết lý yêu nước qua lễ hội đền Gióng

Tình cảm yêu nước, tinh thần yêu nước, chủ nghĩa yêu nước là những sắc thái, cấp độ khác nhau thể hiện nhân sinh quan, thế giới quan của người Việt, đúng như Giáo sư Trần Văn Giàu đã từng nhận định:

Chủ nghĩa yêu nước là sợi chỉ đỏ xuyên qua toàn bộ lịch sử Việt Nam từ cổ đại đến hiện đại. Ở đây, bản chất Việt Nam biểu lộ rõ ràng, đầy đủ, tập trung nhất, hơn bất cứ chỗ nào khác. Yêu nước thành một triết lý xã hội và nhân sinh của người Việt Nam, và nếu dùng từ “đạo” với nguyên nghĩa của nó là “đường”, là hướng đi, thì chủ nghĩa yêu nước đích thật là đạo Việt Nam [29, tr. 101]. 

Thánh Gióng là một trong những thiên huyền thoại đẹp đẽ nhất của người Việt thể hiện tinh thần và sức mạnh trong đấu tranh chống ngoại xâm, giữ nước, thể hiện tinh thần yêu nước điển hình của dân tộc Việt. Hội Gióng là lễ hội tưởng nhớ và ca ngợi chiến công của người anh hùng Thánh Gióng, một trong “Tứ bất tử” trong tín ngưỡng dân gian Việt Nam. Lễ hội mô phỏng một cách sinh động diễn biến các trận đấu của Thánh Gióng và nhân dân Văn Lang trong cuộc chiến chống giặc Ân, thông qua đó, giáo dục lòng yêu nước, truyền thống thượng võ, ý chí quật cường và khát vọng độc lập, tự do của dân tộc. 

Theo các nhà nghiên cứu văn hóa dân gian, hội Gióng ở Sóc Sơn (nơi Thánh Gióng bay về trời) và hội Gióng ở Phù Đổng (nơi sinh ra Thánh Gióng) có ý nghĩa và hòan chỉnh hơn những nơi khác, từ ý tứ truyền thuyết đến nghệ thuật diễn xướng. Ngoài ra còn hơn 10 hội Gióng cũng thuộc địa bàn Hà Nội như: hội Gióng Bộ Đầu xã Bộ Đầu, huyện Thường Tín; lễ hội thờ Thánh Gióng ở các làng Đặng Xá, Lệ Chi (huyện Gia Lâm); các làng Phù Lỗ Đoài, Thanh Nhàn, Xuân Lai (huyện Sóc Sơn); Sơn Du, Cán Khê, Đống Đồ (huyện Đông Anh); Xuân Tảo (huyện Từ Liêm); làng Hội Xá (Quận Long Biên). 

Hai hội Gióng tiêu biểu ở Hà Nội là hội Gióng Sóc Sơn ở đền Sóc – xã Phù Linh, huyện Sóc Sơn và hội Gióng Phù Đổng ở đền Phù Đổng – xã Phù Đổng, huyện Gia Lâm đã được UNESCO công nhận là di sản văn hóa phi vật thể của nhân loại. Giá trị nổi bật ở hội Gióng chính là một hiện tượng văn hóa được bảo lưu, trao truyền khá liên tục và toàn vẹn qua nhiều thế hệ. Và hơn hết, qua lễ hội đền Gióng, tinh thần yêu nước của dân tộc Việt được thể hiện một cách sinh động và nổi bật. Đây là cơ hội để người tham dự được chứng kiến một hệ thống lễ thức với các thao tác thuần thục, uy nghi, mang tính nghệ thuật và tính biểu tượng cao, nhằm tái hiện mối quan hệ nhiều chiều giữa làng và nước, giữa cá nhân và cộng đồng, giữa quá khứ và hiện tại, giữa thực và ảo, giữa thiêng liêng và trần tục. Ở đây, chúng tôi dành mối quan tâm tới hội Gióng Phù Đổng.

Hội Gióng Phù Đổng được tổ chức hàng năm tại xã Phù Đổng, huyện Gia Lâm, thành phố Hà Nội – nơi sinh ra người anh hùng huyền thoại Phù Đổng Thiên Vương, từ mùng 6 đến 12 tháng 4 âm lịch, trong đó, ngày mùng 9 tháng 4 âm lịch là chính hội, đồng thời là ngày tái hiện nhiều nghi thức văn hóa tiêu biểu thể hiện sự linh thiêng, hào hùng, tính nhân văn của một lễ hội dân gian. Trong dân gian từng có câu ca dao nói về sức hấp dẫn của Hội Gióng: Ai ơi mùng chín tháng tư/ Không đi Hội gióng cũng hư mất người

Theo Cao Huy Đỉnh:

Vì trung châu là nơi đã gắn những đặc điểm xã hội và thiên nhiên của mình với cuộc đời và chiến công thần kỳ của Dóng, là nơi đã dựng lên ngôi đền Dóng uy nghi và mở hội Dóng náo nhiệt hàng năm. Đền Dóng và hội Dóng ấy đã khắc sâu vào trí nhớ muôn đời của nhân dân hình tượng vô cùng rực rỡ của người anh hùng [26, tr. 485].

Hội Gióng có thể xem như một cách tổng kết lịch sử của các cuộc chiến thắng ngoại xâm của người Việt thời cổ đại. Thánh Gióng là hình ảnh tập trung của nhân dân thuở ấy. Mặc dù hội diễn thể hiện lại tích truyện mang tính thần bí, song đã nêu bật được những đặc trưng tư tưởng và hành động yêu nước trong lịch sử, đó đều là những nét phổ biến nhất, tốt đẹp nhất, cao quý nhất của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam nói chung. 

Qua lễ hội đền Gióng, chúng ta thấy biểu hiện rất rõ triết lý yêu nước của người Việt xưa:

Thứ nhất, đứa trẻ làng Gióng không tên, không cha (mẹ nó đi hái cà, ướm chân vào dấu chân của thần Khổng lồ trong vườn cà, thụ thai mà sinh ra nó). Nó là con của mẹ Đất (mẹ trồng lúa, trồng cà) và cha Trời (mưa giông, gió giật), là con của mẹ thực và cha ảo (người khổng lồ). Đứa trẻ không tên vì nó là mọi người. Cha nó là ông Khổng lồ, cũng có nghĩa rằng nó là con của một nhân dân vĩ đại. 

Thứ hai, đứa trẻ làng Gióng sinh ra mấy năm không biết nói, cười, đi, đứng, chỉ nằm trong nôi. Nhưng khi sứ giả đi truyền rao cần nhân tài cứu nước, đứa bé ấy liền cất lời – lời đầu tiên là xin tình nguyện đi đánh giặc. Điều đó thể hiện tinh thần yêu nước của một cậu bé nhỏ tuổi, nhưng đại diện cho cả một dân tộc. Giặc đến nhà, bất kỳ là người dân nào, không phân biệt tuổi tác, giới tính, địa vị… đều nêu cao tinh thần xả thân vì nước, cứu nước cứu dân trước hết, tổ quốc trên hết.

Thứ ba, đứa trẻ làng Gióng, hôm qua còn nằm trong nôi, hôm nay lãnh trọng trách đánh giặc cứu nước, thì vươn vai một cái đã trở thành người khổng lồ, to lớn, có sức khỏe phi thường. Nhân dân mang bao nhiêu nong cơm, vại cà, cậu bé đều ăn hết, càng ăn càng lớn khỏe, có thể nhổ cả bụi tre làm vũ khí đánh giặc. Chắc hẳn ẩn chứa trong câu chuyện đó là khát vọng của cha ông ta về một sức mạnh để đánh bại quân thù. Dân tộc ta khi đứng trước một nhiệm vụ lịch sử nặng nề, với lòng yêu nước nồng nàn sẵn có, với mưu trí sáng tạo và sự đồng lòng chung sức mà vươn lên mau chóng, lớn mạnh mau chóng để cho kịp nhiệm vụ được trao. Và thực tế lịch sử đấu tranh dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam đã minh chứng cho việc chúng ta phải đương đầu và giành chiến thắng trước những kẻ xâm lăng, xâm lược mạnh hơn mình gấp nhiều lần.

Thứ tư, sau khi đánh tan quân giặc, vị anh hùng làng Gióng không về triều để nhận thưởng mà giục ngựa lên núi Sóc, bay về trời, hẹn khi đất nước lâm nguy sẽ quay trở lại giúp dân giúp nước. Đó là một chủ nghĩa yêu nước hòan toàn trong sáng, không gợn chút danh vị và tư lợi nào, một tinh thần phục vụ vô điều kiện cho tổ quốc và đồng bào mình. Hình ảnh Gióng bay về trời ẩn chứa một triết lý nhân văn của dân tộc Việt, đó là một dân tộc yêu chuộng hòa bình, cầu hòa chứ không “hiếu chiến”. Ngài bay về trời trong sự thảnh thơi, bỏ lại sau lưng những ân oán thù hận, những cảnh binh đao khói lửa… chứ không phải ở lại để sẵn sàng chiến đấu, sẵn sàng tâm thế đón đợi kẻ thù. Ước vọng thái bình của dân tộc Việt được phản ánh qua hình ảnh thiêng liêng, tuyệt đẹp đó đã được nhân dân ta truyền tụng từ đời này sang đời khác, góp phần tạo nên một truyền thống quý báu của dân tộc – truyền thống yêu nước và yêu chuộng hòa bình. 

Người anh hùng đích thực là người anh hùng vô danh. Lớn lên “như thổi” trong gian lao vì nạn nước, lớn lên để cứu nước. Cứu nước xong thì “bay” đi chứ không ở lại để cầu danh, giống như con em người dân thường, khi có giặc thì đi đánh giặc, giặc tan, lại trở về làm dân, vô tư vì nghĩa lớn…

Vô danh mà tên tuổi vẫn để đời. Đấy là biện chứng lịch sử.

Đức Thánh Gióng – một trong bốn vị thánh bất tử của Việt Nam, là biểu tượng chống giặc ngoại xâm của dân tộc, thể hiện khao khát độc lập tự do bằng bất cứ giá nào: tới mức cả đứa trẻ Gióng khi cần cũng lớn bổng lên kỳ diệu để diệt giặc. Thánh Gióng là sự khái quát hoá, hình tượng hoá và lý tưởng hoá toàn bộ quá trình sinh ra, lớn lên, chiến đấu và chiến thắng của đội quân chống xâm lược đầu tiên của Việt Nam trong thời kỳ Văn Lang. Lễ hội đền Gióng với những nghi lễ đã thành hệ thống, có khả năng giúp con người tu dưỡng, trau dồi đức độ, thỏa mãn chiều sâu tâm lý tình cảm, nhằm điều hòa cuộc sống. Những nghi thức được thực hiện hàng năm không nghỉ, luôn được quan tâm, chứa đựng trong nó sự huyền bí và sức sống của một huyền thoại gắn liền với lòng tự chủ dân tộc của người Việt Nam. Với Thánh Gióng, trong tâm thức của người dân đất Việt, đó là hào khí của bản hùng ca hòanh tráng từ ngàn xưa vọng lại. Niềm tự hào, kính trọng về sức mạnh đoàn kết của dân tộc trong việc chống giặc ngoại xâm bảo vệ đất nước. Ðến với hội Gióng, người ta thấy được mối quan hệ giữa làng và nước, giữa cá nhân và cộng đồng, quá khứ và hiện tại như hòa nhập với nhau. Truyền thống yêu làng, yêu nước được giữ gìn như một tài sản văn hóa. Câu chuyện về Thánh Gióng có thể xem là nơi chung đúc, gửi gắm biết bao nhiêu ước nguyện thiết tha cho sự trường tồn của dân tộc.

Lễ hội Thánh Gióng là một nghi thức thờ cúng anh hùng dân tộc, đồng thời là một cuộc tổng diễn xướng anh hùng ca Thánh Gióng trên một quy mô rộng lớn. Nó là một bước phát triển phong phú của anh hùng ca dân tộc. Một lần nữa, huyền thoại này với những yếu tố cổ nhất, hồn nhiên nhất đã làm sống lại chủ đề và hình tượng người anh hùng tập thể của bộ lạc, được nâng lên thành người anh hùng dân tộc với một chất lượng mới, một biểu tượng văn hóa có tầm vóc đặc biệt, thể hiện khát vọng muôn đời và hào khí của dân tộc ta.

Yêu nước là một truyền thống sâu bền, cao đẹp, không còn dừng lại ở trình độ một nhận thức, một tình cảm, mà đã trở thành một chủ nghĩa, một lực lượng tinh thần vô cùng mạnh mẽ, có tác dụng to lớn trong việc động viên, cổ vũ mọi người dân sẵn sàng đứng lên bảo vệ Tổ quốc khi có nguy cơ xâm lược từ ngoài tới, hay góp hết tinh thần và sức lực vào sự nghiệp xây dựng, kiến thiết đất nước. Có thể nói, Thánh Gióng đã trở thành biểu tượng của chủ nghĩa yêu nước, để từ đó, lan tỏa khắp không gian, trải dài qua thời gian, thẩm thấu vào từng con người Việt Nam, tạo nên ý thức tự tôn, tinh thần yêu nước cho cả một dân tộc. Hàng năm, cứ đến dịp lễ hội đền Gióng được tổ chức, tinh thần ấy lại bùng cháy trong mỗi người dân đất Việt.

2.1.2. “Hiếu học” – một triết lý nhân sinh của người Việt qua lễ hội đền Tống Trân

Trạng nguyên Tống Trân được biết đến qua truyện nôm khuyết danh “Tống Trân – Cúc Hoa” nổi tiếng. Ông sinh vào ngày Rằm tháng Tư năm Mậu Ngọ (năm 544) ở xã An Đô, tổng Võng Phan, huyện Phù Dung (nay là thôn An Cầu, xã Tống Trân, huyện Phù Cừ, tỉnh Hưng Yên) trong một gia đình nghèo khổ, cha mất sớm. Nhưng ngay từ bé, Tống Trân đã tỏ rõ là người có khí chất thông minh, thiên tư sáng suốt, học một biết mười. Sau khi tham gia ứng thí và thi đỗ Trạng nguyên, Tống Trân được Vua ban cho cờ biển, vuông gấm, vàng bạc về vinh qui bái tổ. Ông đã từng được cử sang Trung Quốc đi sứ và được vua phương Bắc phong là “Lưỡng quốc Trạng nguyên”. Làm quan đến ngoài 60 tuổi, Tống Trân dâng biểu xin về quê, mở trường dạy học, được 5 năm thì mất. Triều đình phong Ngài là “Thượng đẳng phúc thần”, “Thượng đẳng tối linh phụ quốc Tống Trân đại vương” [89].

Lễ hội đền Tống Trân được tổ chức hàng năm từ mùng 9 đến 15 tháng 4 âm lịch tại làng An Cầu. Thành thông lệ, sau khi mở cửa đền, tế lễ khai hội, ngày mùng 10, dân làng An Cầu làm lễ rước nước (rước mực) và nghiên bút từ ngã ba sông Luộc, khu vực bến Đò Nông thuộc thôn An Cầu về đền. Đây không đơn thuần là một nghi lễ được lưu truyền, gìn giữ từ xa xưa mà còn là một nét đẹp văn hóa tôn vinh việc học hành. Tục truyền lại rằng: Tống Trân sau khi đỗ Trạng nguyên về vinh quy bái tổ, về đến làng mình nhưng chẳng có ai đón rước, vì dân làng và tầng lớp quan lại, chức dịch cho rằng Tống Trân còn quá ít tuổi, lại là con nhà nghèo sớm mồ côi cha, xuất thân từ tầng lớp thấp hèn của xã hội, nên không được rước đón. Bực mình, ông đã ném nghiên bút xuống sông để quở mắng quan lại, chức dịch trong làng. Chính vì điển tích này nên nhân dân đã gọi lễ hội rước nước là rước mực vì nước được lấy từ dòng sông Luộc nơi ông ném nghiên bút xuống [8].

Ngày 11 đến ngày 12 tháng 4 âm lịch là ngày các dòng họ và nhân dân trong làng đến lễ và xin khước từ đức thánh, tức là xin một chút “mực” từ chiếc choé đựng nước ở bến Đò Nông trong đền. Người ta tin rằng, nếu xoa lên đầu trẻ con chút “mực” đó thì chúng sẽ sáng dạ và học giỏi như vị Lưỡng quốc Trạng nguyên Tống Trân [8].

Chúng tôi nhận thấy, những truyện kể về Tống Trân chứng tỏ nhân vật đã đại diện cho tình cảm, nguyện vọng, ước mơ nhiều mặt của nhân dân nơi đây. Trước hết, Tống Trân thể hiện ước mơ về sự thành đạt của những người dân lao động bình thường, lam lũ. Có thể nói, lễ hội đền Tống Trân là một lễ hội khá đặc biệt, nó thể hiện tinh thần hiếu học vốn có của một làng quê, nhưng hơn hết, đó là một lễ hội của sự thành kính những người tài đức và nêu cao giá trị của việc học trong tâm thức của nhiều thế hệ người dân ở vùng quê này nói riêng, của đất nước Việt Nam nói chung. 

Từ lễ hội đền Tống Trân, chúng ta có thể thấy truyền thống hiếu học của dân tộc được phản ánh hết sức sinh động. Người Việt Nam lấy sự học làm điều căn bản để thực hiện đạo lý làm người. Trong suốt mấy ngàn năm dựng nước và giữ nước, trải qua mọi thăng trầm của lịch sử, hiếu học là một truyền thống, là nguồn sức mạnh tinh thần to lớn, luôn được đề cao và coi trọng.

“Hiếu học” là một khái niệm có thể coi như một bộ phận, một chi tiết, một biểu hiện của sự khát khao tri thức rất tự nhiên của con người. Khát vọng về tri thức của các tầng lớp nhân dân bắt nguồn từ truyền thống hiếu học ngàn đời của dân tộc. Truyền thống hiếu học là thói quen ham thích, coi trọng việc học hành được hình thành lâu đời, được truyền từ đời này sang đời khác.

Đối với người Việt Nam, hiếu học và coi trọng tri thức là một truyền thống đã ăn sâu vào tâm khảm mỗi người dân. Ngay từ thuở lập nước thì việc bồi dưỡng nhân tài, xây thành, đắp lũy, thủy lợi, trị an… bao giờ cũng được các bậc quân vương, minh chúa lưu tâm. Bởi “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia, nguyên khí vượng thì thế nước mạnh và đi lên, nguyên khí suy thì thế nước yếu rồi đi xuống” (Thân Nhân Trung). Vì thế, từ khi khoa cử ra đời, thời nào cũng có những bậc hiền sĩ, nhân tài xuất hiện giúp sức vào việc củng cố nền thịnh trị của quốc gia, làm rạng danh cho đất nước. Từ đó, những Văn Miếu, Văn bia được dựng nên để lưu danh những hiền nhân. 

Biểu hiện trước hết của tinh thần hiếu học là sự ham học hỏi, thích hiểu biết một cách tự nguyện và bền vững… Người hiếu học là người có nhu cầu học tập suốt đời. Bởi sự học như chiếc thang không nấc chót và cũng như người đi trên con thuyền ngược dòng, chỉ có tiến lên phía trước mà không được phép dừng lại, vì đứng lại đồng nghĩa với tụt hậu [110, tr.43]. Đặc biệt, trong thời đại kinh tế tri thức hôm nay, với sự phát triển của khoa học kỹ thuật, kiến thức bùng nổ thì việc học càng là một điều bắt buộc. Với ý thức “Học nhi bất yếm” (Học không biết chán), ông bà ta xưa dù nghèo mấy cũng cố cho con đi học kiếm dăm ba chữ để làm người. Gia đình Tống Trân dù nghèo khổ là vậy nhưng Tống Trân vẫn kiên trì đèn sách và tham dự kỳ thi khoa bảng. Việc chàng đỗ Trạng Nguyên chứng minh cho khát vọng vươn lên, chiếm lĩnh tri thức của cha ông ta từ thuở xưa, cho dù khó khăn chừng nào vẫn có thể hiển vinh bằng con đường học tập.

 Biểu hiện thứ hai của tinh thần hiếu học là thái độ luôn coi trọng sự học, coi trọng người có học. Việc đề cao giá trị của trí tuệ, thái độ trân trọng việc học hành cũng là điều được dân gian hết sức quan tâm: Kho vàng không bằng một nang chữ; Người không học như ngọc không mài… Từ đó hình thành đạo lý tôn sư trong đạo: “Kính thầy mới được làm thầy”; “Không thầy đố mày làm nên”; “Muốn sang thì bắc cầu kiều/Muốn con hay chữ thì yêu lấy thầy” [110, tr. 43]… Thậm chí trong tam cương, người xưa còn đặt người cha tinh thần trước người cha đẻ của mình (Quân – Sư – Phụ). Tích truyện nói về chi tiết Tống Trân từ quan, về nhà mở trường dạy học chính là thể hiện thái độ “trọng học”, “trọng danh” của người Việt. Cho dù giàu sang phú quý đến đâu cũng không bằng hạnh phúc đem lại tri thức cho cộng đồng, được trở thành người thầy giáo – nghề nghiệp được cả xã hội trọng vọng.

Lễ hội Tống Trân, với màn rước nước (rước mực) tượng trưng cho khát khao tri thức của người Việt; tục xin nước về xoa đầu trẻ với mong muốn con em mình ngày càng giỏi giang, hiếu học, học giỏi… đã một lần nữa khẳng định tâm lý yêu thích sự học, coi trọng giá trị của việc học, khát vọng thành đạt, vinh hoa phú quý bằng con đường thi cử, ước mơ, hòai bão trở thành những “người tài” cống hiến cho xã hội của người Việt Nam, không chỉ trong quá khứ mà còn ở hiện tại, và cả tương lai.

Nhìn vào lịch sử giáo dục Việt Nam, chúng ta có thể nhận biết truyền thống hiếu học từ ngàn đời của dân tộc. Thời Bắc thuộc, ông cha chúng ta vừa kiên trì chống đô hộ phong kiến phương Bắc, vừa khắc phục khó khăn để tiếp thu tinh hoa văn hóa của nhân dân Trung Quốc, nhờ đó, dù bị đô hộ, bị kìm hãm và đồng hóa, nhưng nước ta không bị lạc hậu bởi chính sách cai trị bóc lột và ngu dân của các thế lực phong kiến phương Bắc. Bằng sự hiểu biết và quyết tâm giành lại chủ quyền, ý thức giữ gìn văn hóa dân tộc, chúng ta đã không bị mất chủ quyền trong giai đoạn lịch sử này.

Hai Bà Trưng từng giành lại chủ quyền, được nhân dân tôn lên làm vua, đóng đô ở Mê Linh vào năm 40 – 43. Lí Bí lãnh đạo nhân dân khởi nghĩa đuổi quân Lương, lập nước Vạn Xuân thời tiền Lý (544 – 602). Mai Hắc Đế khởi nghĩa đuổi quân Đường ra khỏi nước ta, chiếm lại thành Tống Bình (Hà Nội), giành lại chủ quyền. Chiến thắng Bạch Đằng năm 938 của Ngô Quyền đã kết thúc thời Bắc thuộc, mở ra kỷ nguyên độc lập chủ quyền của dân tộc ta.

Đến thời nhà Lý, ý thức được giá trị của tri thức, vua Lý Nhân Tông cho xây Quốc tử giám năm 1076 (được xem là trường đại học đầu tiên) để đào tạo nhân tài cho đất nước. Từ đó về sau, nền giáo dục ngày càng được kiện toàn và phát triển. Tuy nhiên, giáo dục của Việt Nam cũng có thời kỳ bị khủng hòang và suy thoái vì sự biến động của đất nước, vì chiến tranh xâm lược và khủng hoảng kinh tế – xã hội.

Trong lịch sử nước nhà, truyền thống hiếu học được nối dài với những tấm gương của Nguyễn Hiền – vị Trạng nguyên 13 tuổi; Bảng nhãn Lê Văn Hưu – nhà sử học nổi tiếng; Nguyễn Văn Nghi – nhờ học thêm trong dân trở thành người giỏi, là thầy dạy của 2 vua (Lê Anh Tông và Lê Thế Tông); nhà bác học Trương Vĩnh Ký – tự học để thành tài…; nhiều tấm gương hiếu học được thế giới đương thời thán phục như Mạc Đĩnh Chi (được xem là lưỡng quốc trạng nguyên), Trạng Trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, nhà mưu lược Nguyễn Trãi, nhà bác học Lê Quí Đôn… 

Khi lịch sử diễn ra cuộc tiếp xúc Đông – Tây, các thế lực phong kiến bào thủ chủ trương đóng cửa với bên ngoài, cùng với chiến tranh xâm lược làm cho sự học của người Việt bị gián đoạn trong một thời gian dài. Trong hòan cảnh ấy, vẫn xuất hiện nhiều hiền tài, sẵn sàng tiếp thu sự tiến bộ, kêu gọi cải cách đất nước như: Phan Thanh Giản, Nguyễn Trường Tộ, Phan Châu Trinh, Nguyễn Mạnh Tường …, đặc biệt là Hồ Chí Minh. 

Ngày xưa, ông cha ta vì ý chí làm quan mà không ngừng theo đuổi sự học. Họ không còn cách nào khác để thoát khỏi thân phận tủi cực của kẻ nghèo hèn. Những bà mẹ, những người vợ nhịn đói nhịn khát để nuôi chồng nuôi con ăn học thành tài, không đỗ trạng nguyên thì cũng đỗ ông nghè, ông cử, ông tú: Em thời canh cửi trong nhà/Nuôi anh đi học chiếm khoa bảng vàng/Trước là vinh hiển tổ đường/Bõ công đèn sách lưu gương đời đời; Học trò đèn sách hôm mai/Ngày sau thi đỗ nên trai mới hào/Làm nên quan thấp, quan cao/Làm nên vọng tía võng đào nghênh ngang; Cơm cha áo mẹ chữ thầy/Gắng công mà học có ngày thành danh…

Trong thời Pháp thuộc, truyền thống ấy vẫn được giữ vững, bất chấp những ý đồ nô dịch của chủ nghĩa thực dân. Các nhà giáo Việt Nam đều biết lợi dụng những yêu cầu thiển cận của chế độ thuộc địa, và, một mặt dựa trên truyền thống hiếu học của dân tộc, một mặt, đề cao những yếu tố nhân đạo và dân chủ của nền văn hóa Pháp, ra sức mở mang dân trí đến mức tối đa theo hướng hiện đại hoá và dân chủ hoá. Từ khi Cách mạng Tháng Tám thành công, những triển vọng lớn lao đã mở ra trước mắt nền giáo dục của nhân dân ta, và truyền thống hiếu học có những điều kiện thuận lợi để phát huy lên những nấc thang mới. Cánh cổng trường mở rộng cho tất cả, và dĩ nhiên, các trường đều nhanh chóng chuyển hẳn sang một nền giáo dục mới – nền giáo dục của một dân tộc độc lập. Với thắng lợi của cuộc kháng chiến chống Pháp năm 1954, khi quân dân ta giải phóng thủ đô Hà Nội và những trung tâm văn hóa khác của miền Bắc, các trường đại học khoa học bắt đầu hoạt động chính thức với một quy mô chưa từng có dưới thời Pháp thuộc [33, tr. 308].

Sinh thời, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã từng khẳng định “Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu”. Sau khi giành độc lập, mặc dù phải tập trung giải quyết nhiều khó khăn bởi giặc ngoại xâm, giặc đói, Bác Hồ xem “dốt” cũng là một thứ giặc nguy hiểm, nên đã chủ trương cho toàn Đảng, toàn dân phải chống ba thứ giặc cùng một lúc. Truyền thống hiếu học của dân tộc được tiếp nối bởi những con người như thế, bởi những việc làm như thế… Nhắc đến Hồ Chí Minh là nhắc đến một tấm gương hiếu học, tấm gương tự học không biết mệt mỏi, Người trở thành biểu tượng cho trí tuệ của người Việt Nam thời đại mới. Cuộc đời của Bác là một quá trình vừa học tập vừa hoạt động cách mạng; học tập để hoạt động cách mạng, đạt được mục đích, lý tưởng của mình; qua hoạt động cách mạng, không ngừng học tập, hòan thiện tri thức và nhân cách của bản thân. Người là nơi hội tụ với tầm cao nhất tinh hoa văn hóa nhân loại.

Người đã để lại tấm gương cao đẹp về tinh thần tự học và học tập suốt đời để chúng ta noi theo. 

Như vậy, với lễ hội đền Tống Trân – một lễ hội tôn vinh sự học, chúng ta càng thấy tự hào về một triết lý sống của cha ông ta đã được hun đúc và lưu giữ qua bao đời. Triết lý ham học hỏi, đề cao tri thức của người Việt nếu được phát huy đúng với tinh thần của nó sẽ trở thành nền tảng cho sự phát triển bền vững của đất nước.

2.1.3. Quan niệm về hôn nhân, hạnh phúc gia đình qua lễ hội Chử Đồng Tử

Chử Ðồng Tử được tôn vinh là một vị thần linh trong “Tứ bất tử” của dân tộc Việt. Ở vùng đồng bằng Bắc Bộ, nhất là vùng ven sông Hồng, sông Ðuống, có rất nhiều nơi lập đền thờ Chử Ðồng Tử hoặc công chúa Tiên Dung, nhưng đền thờ chính là đền Đa Hòa (xã Bình Minh) và đền Hóa (xã Dạ Trạch), thuộc huyện Khoái Châu, tỉnh Hưng Yên. Lễ hội Chử Đồng Tử – Tiên Dung (hay còn gọi là lễ hội tình yêu, lễ hội Đa Hòa – Dạ Trạch) được tổ chức ở hai ngôi đền này từ mùng 10 đến 12 tháng 2 âm lịch hàng năm.

Lễ hội Chử Đồng Tử – Tiên Dung được tổ chức để ngợi ca và tưởng nhớ một tình yêu đẹp, bất chấp mọi rào cản và định kiến xã hội giữa chàng trai nghèo Chử Đồng Tử và nàng công chúa Tiên Dung. Trong điện thờ, ngoài bài vị của Chử Đồng Tử, Tiên Dung còn có bài vị của công chúa Tây Sa, là tiên nữ giáng trần, có tài chữa bệnh, được Tiên Dung cảm mến kết tình chị em, se duyên cho chồng. Qua lễ hội Chử Đồng Tử, truyền thuyết và dã sử, hiện thực và thần thoại, người thường và thần thánh đã thống nhất, hòa quyện trong một câu chuyện hấp dẫn lạ lùng, hàm chứa bao ý nghĩa sâu xa, độc đáo. Tình yêu đích thực là bất tử, là sự vượt lên cường quyền, áp bức, chia lìa, đói nghèo và cường bạo. 

Lễ hội Chử Đồng Tử phản ánh triết lý nhân sinh của người Việt về tình yêu – hôn nhân – hạnh phúc. Đó là những quan niệm vô cùng cao đẹp và đáng mơ ước của người dân về cuộc sống hôn nhân gia đình, với điểm tựa là tình yêu chân thành và cái đích là hạnh phúc trọn vẹn. Song ẩn chứa trong câu chuyện hôn nhân Tiên Dung – Chử Đồng Tử chính là sự phản ánh cuộc đấu tranh giữa hai quan điểm sống, đấu tranh với thiết chế chính trị – xã hội đương thời của người Việt xưa.

Một là, cuộc hôn nhân giữa chàng trai nghèo Chử Đồng Tử và công chúa Tiên Dung tiêu biểu cho cuộc đấu tranh chống phân biệt đẳng cấp trong hôn nhân. Chử Đồng Tử và Tiên Dung – hai con người thuộc hai đẳng cấp khác biệt, đến với nhau vì tình thương, sự cảm mến, bằng tình yêu trong sáng, không chút vị kỷ của những con người trẻ tuổi. Xuất phát từ tình cảm chân thành, họ làm lễ kết duyên ngay trên dòng sông ban đầu gặp gỡ. Trong bối cảnh lịch sử cổ xưa ấy, khi mà hôn nhân luôn phải “môn đăng hộ đối”, nhất là trong tầng lớp vua chúa, quan lại, không có chuyện “đũa mốc chòi mâm son”, thì mối tình Tiên Dung – Chử Đồng Tử như một “cơn địa chấn” trong xã hội yên bình nhưng lạc hậu ấy. 

Truyền thuyết luôn gắn bó với lịch sử, phản ánh những sự kiện trọng đại của dân tộc, nhiều nhân vật trong truyền thuyết cũng là nhân vật trong chính sử được nhiều người thừa nhận, noi theo, song truyền thuyết còn là tâm tư, tình cảm, mong ước thầm kín của nhân dân trong mỗi triều đại lịch sử qua cách nhân dân “kể” lại các sự kiện. Nó giống như một dòng chảy âm thầm nhưng mỗi ngày một mạnh mẽ mà nhân dân đã khéo léo thể hiện và nuôi dưỡng nó qua việc chủ động đánh giá lịch sử. Với truyền thuyết Chử Đồng Tử – Tiên Dung, khát vọng về hôn nhân không phân biệt đẳng cấp được thể hiện một cách dung dị, nên thơ nhưng không kém phần mạnh mẽ, quyết liệt.

Hai là, câu chuyện Chử Đồng Tử – Tiên Dung là lời tranh đấu chống lại sự áp đặt trong hôn nhân, đòi tự do trong việc lựa chọn hôn nhân.

Mấy ai thấu hiểu được nỗi đau của những thân gái bị cha mẹ ép duyên, phải vùi lấp cả tuổi xuân trong những cuộc hôn nhân được sắp đặt trước: Mẹ em tham thúng xôi rền/Tham con lợn béo, tham tiền Cảnh Hưng/Em đã bảo mẹ rằng đừng/Mẹ hấm mẹ hứ mẹ bưng ngay vào/Bây giờ chồng thấp vợ cao/Như đôi đũa lệch so sao cho bằng. Để rồi người ta phải thổn thức mong cầu: Ép dầu ép mỡ, ai nỡ ép duyên…  

Phải chăng những quan niệm cổ hủ, lạc hậu, phi lí mới thực sự là vật cản bước chân người phụ nữ trên hành trình kiếm tìm và góp nhặt hạnh phúc? Chính những quan niệm xã hội khắt khe, vốn đã giam cầm người phụ nữ trong vách ngăn của nỗi mặc cảm thân phận, giờ đây lại một lần nữa đẩy cuộc đời họ đến nỗi bất hạnh khi không được tự do lựa chọn hạnh phúc riêng. Với khát vọng về quyền tự do trong việc chọn lựa phu – thê, chống lại sự sắp đặt trong hôn nhân của phụ – mẫu, người Việt đã mượn chuyện tình Tiên Dung – Chử Đồng Tử để thể hiện cho ước nguyện của mình. Hai nhân vật ấy đến với nhau bằng tình yêu chân thành, họ tự quyết định số phận mình, hôn nhân của mình mà không bị ràng buộc bởi bất kỳ rào cản nào. Đó cũng chính là khao khát được sống cuộc đời trọn vẹn, có được hạnh phúc trọn vẹn của những con người tạo nên truyền thuyết về mối tình đẹp Chử Đồng Tử – Tiên Dung.

Ba là, mối tình Tiên Dung – Chử Đồng Tử góp phần chống lại chế độ phụ quyền và các thiết chế đi kèm của nó.

Thời xưa, dưới chế độ phong kiến, số phận người phụ nữ luôn bị vùi dập, luôn bị trói buộc bởi xã hội bất công, nam quyền độc đoán, một xã hội “trọng nam khinh nữ”. Họ gặp nhiều lận đận, khổ đau, tình duyên trắc trở, chịu cuộc đời làm lẽ, số phận éo le, hẩm hiu, ngang trái. Chế độ phụ quyền phong kiến đã phần nào kìm hãm cuộc đời, tài năng, hạnh phúc của những người phụ nữ, khiến họ nuôi dưỡng âm ỉ, lâu bền một ý thức phản kháng chống lại sự bất bình đẳng trong thiết chế xã hội cũ. Tình yêu của Tiên Dung chính là sự gửi gắm tâm tư, ước nguyện của người Việt về cuộc đấu tranh đòi sự bình đẳng giữa hai thiết chế mẫu quyền – phụ quyền ấy. Nàng Tiên Dung đã vượt qua rào cản địa vị xã hội, sẵn sàng chấp nhận hình phạt của vua cha (vua Hùng thứ ba hay tin đã đoạn tuyệt với con gái, không cho phép Tiên Dung trở về hòang cung), ở lại cùng xây dựng tổ ấm với người chồng nghèo, cùng làm những việc lao động, buôn bán nặng nhọc mà trước đây chưa từng trải qua. Câu chuyện đã trở thành một biểu tượng đẹp về ý chí tự lập, tự cường, khẳng định quyền sống và quyền hưởng hạnh phúc của người phụ nữ. Đó cũng là khát vọng của người xưa về sự bình đẳng, xóa bỏ đẳng cấp xã hội.

Bốn là, chuyện tình Chử Đồng Tử – Tiên Dung phản ánh thiết chế đa thê trong xã hội xưa. Như đã nêu ở trên, cuộc hôn nhân của Chử Đồng Tử và Tiên Dung còn có sự xuất hiện của Tây Sa công chúa – người vợ thứ của Chử Đồng Tử. Mặc dầu trong truyền thuyết, cuộc hôn nhân của họ rất êm ấm, hạnh phúc vì ngoài tình nghĩa vợ chồng, giữa họ còn là tình chị em kết nghĩa, song nó cũng phản ánh một thực tế trong hôn nhân truyền thống của người Việt xưa, đó là chế độ “đa thê”. 

Chế độ hôn nhân ở nước ta thời phong kiến rất hạn chế quyền lợi của phụ nữ, cho phép đàn ông lấy nhiều vợ và thiếp (trong khi phụ nữ chỉ được phép lấy một chồng): Trai năm thê bảy thiếp/Gái chính chuyên một chồng. Cho nên, thân phận làm lẽ của người phụ nữ là vô cùng tủi nhục, trái ngang, nghịch cảnh: Thân em làm lẽ vô duyên/Mỗi ngày một trận đòn ghen tơi bời/Ai ơi ở vậy cho rồi/Còn hơn làm lẽ, chồng người khổ ta (Ca dao). Nỗi đau của những thân gái phải chịu kiếp “chồng chung” đã khiến thi sĩ Hồ Xuân Hương phải uất ức, nghẹn ngào thốt lên: Kẻ đắp chăn bông kẻ lạnh lùng/Chém cha cái kiếp lấy chồng chung (Lấy chồng chung – Hồ Xuân Hương). Không có hạnh phúc, mất đi hạnh phúc liệu có đau hơn phải xé lẻ hạnh phúc, nhất là trong hôn nhân, nơi mà mỗi con người đều mong muốn được hưởng hạnh phúc trọn vẹn, tuyệt đối? 

Từ đó, người dân đã khát khao, ước muốn về một mẫu hình hôn nhân một vợ một chồng: Đói no một vợ một chồng/Một niêu cơm tấm dầu lòng ăn chơi; Đói lòng nằm gốc cây sung/Chồng một thì lấy, chồng chung thì đừng. Đó thật sự là một ước mơ cao đẹp, chính đáng và đậm chất nhân văn của những con người bình dân trong xã hội cũ.

Trở về với lễ hội Chử Đồng Tử, chúng ta càng thấm thía những suy tư và khát vọng của cha ông xưa về một cuộc sống hôn nhân an bình, êm ấm. Từ tình yêu, hôn nhân, hạnh phúc của Chử Đồng Tử – Tiên Dung, chúng ta tham chiếu vào các giá trị tình yêu, hôn nhân, hạnh phúc của giới trẻ ngày nay để thấy trân quý những giá trị truyền thống, những triết lý về cuộc sống gia đình của người Việt. Để giới trẻ Việt Nam có những suy nghĩ đúng đắn, tích cực về tình yêu, hạnh phúc gia đình, thiết nghĩ, cần coi trọng công tác giáo dục truyền thống từ nhiều hình thức, phương thức khác nhau, trong đó có việc khuyến khích giới trẻ tham gia vào những lễ hội dân gian đậm chất nhân văn, giàu tính triết lý như lễ hội Chử Đồng Tử.

2.2. NHÂN SINH QUAN NGƯỜI VIỆT QUA MỘT SỐ TÍN NGƯỠNG DÂN GIAN 

2.2.1. Quan điểm “trọng nữ’’ qua tín ngưỡng thờ Mẫu

Trong hệ thống tín ngưỡng, tôn giáo của Việt Nam, hình ảnh người phụ nữ đã được đưa lên điện thờ và họ được xem như một lực lượng siêu nhiên và làm chủ thế giới thần linh, hình thành một thứ tín ngưỡng thờ Mẫu (hay còn gọi là đạo Mẫu). 

Trước nhất, tín ngưỡng thờ Mẫu không phải là một hình thức tín ngưỡng tôn giáo đồng nhất, mà nó là một hệ thống các tín ngưỡng, trong đó ít nhất bao gồm ba lớp khác nhau, nhưng có mối quan hệ hữu cơ và chi phối lẫn nhau, đó là lớp tín ngưỡng thờ Nữ thần, lớp thờ Mẫu Thần và lớp thờ Mẫu Tam phủ, Tứ phủ [100, tr. 24-34].

Đây là một thứ tín ngưỡng có nguồn gốc bản địa đích thực, mặc dù trong quá trình phát triển, nó đã thu nhận những ảnh hưởng của Đạo giáo (tục thờ Tiên), Phật giáo (Phật Mẫu). Tín ngưỡng thờ Mẫu lấy tôn thờ Mẫu (Mẹ) làm đấng bảo trì cho vũ trụ, con người, là nơi con người ký thác những mong ước, khát vọng về đời sống trần thế của mình, đạt tới sức khỏe và tài lộc.

Ở nước ta, tín ngưỡng thờ Nữ thần đã có từ lâu đời. Các nữ thần có thể là nhiên thần, cũng có thể là nhân thần. Tín ngưỡng Tứ Pháp – thờ các hiện tượng thiên nhiên mây, mưa, sấm, chớp – Pháp Vân, Pháp Vũ, Pháp Lôi, Pháp Điện là sự hợp phối giữa Phật giáo và tín ngưỡng dân gian Việt Nam, trong đó, đối tượng được tôn thờ và thánh hóa cũng mang tính nữ (Phật Mẫu Man Nương). Trong các huyền thoại, truyền thuyết của Việt Nam, các vị nữ thần cũng được đồng nhất với lực lượng siêu nhiên tạo lập bản thể của vũ trụ như Nữ thần Mặt Trời, Nữ thần Mặt Trăng, Bà Nữ Oa đội đá vá trời, đắp núi, khơi sông. Các yếu tố mang tính bản thể vũ trụ, như Kim, Mộc, Thủy, Hỏa, Thổ cũng đều được gắn với yếu tố Nữ: Bà Kim, Bà Mộc, Bà Thủy, Bà Hỏa… [100, tr. 25].

Từ tục thờ Nữ thần, Mẫu thần, người Việt đi đến thờ mẫu Tam phủ, Tứ phủ – một thứ đạo giáo đặc thù của Việt Nam.

Tam phủ là thờ ba Mẫu (Mẫu Thượng Thiên, Mẫu Thượng Ngàn và Mẫu Thoải/Thủy).

Ba Mẫu này lần lượt tượng trưng cho ba yếu tố: Trời, Rừng và Nước. Mẫu Thượng Thiên (còn gọi là Mẫu Đệ Nhất) cai quản bầu trời. Mẫu Liễu Hạnh được coi là hóa thân của Mẫu Thượng Thiên. Bà còn được tôn vinh trong hệ thống “Tứ bất tử”. Dù ở đâu có điện thờ Mẫu, dù vị thần ở đó được thờ là ai, nam thần hay nữ thần thì đều có linh tượng của Bà. Nơi thờ chính của Thánh Mẫu Liễu Hạnh là Phủ Giày (Vụ Bản, Nam Định), nơi Bà giáng trần lần đầu tiên, cũng là nơi quê hương của cha mẹ, chồng con Bà; Phủ Sòng Sơn (Thanh Hóa), nơi Bà hiển Thánh; Phủ Tây Hồ (Hà Nội), nơi Bà từng gặp gỡ, đàm đạo thơ văn của Phùng Khắc Khoan và các thư sinh họ Ngô, họ Lý. Ngoài những nơi chính đó ra, Bà còn được thờ vọng ở khắp mọi nơi, trong Nam, ngoài Bắc, miền xuôi cũng như vùng núi [100, tr. 114].

Mẫu Thượng Ngàn (còn gọi là Mẫu Đệ Nhị) cai quản miền rừng núi. 

Mẫu Thượng Ngàn gắn bó với con người cùng cỏ, cây, chim, thú. Đền thờ Mẫu Thượng Ngàn có ở nhiều nơi, nhưng có hai nơi thờ phụng chính là Suối Mỡ (Bắc Giang) và Bắc Lệ (Lạng Sơn) [100, tr. 64].

Mẫu Thoải (hay Thủy) tức là bà mẹ Nước. Sự tích của bà đến nay chưa được rõ ràng, vì mỗi nơi hiểu theo một cách. Các Mẫu Thoải này trông coi việc sông biển, làm mưa, chống lũ lụt, khi có hạn cũng phải cầu đảo các Bà.

Các Bà còn giúp nhiều vị tướng lĩnh hay nhà vua đi chinh chiến dẹp giặc [100, tr. 64].

Tứ Phủ là hệ thống dựa trên Tam phủ nhưng lại có sự bổ sung thêm một phủ thứ tư. Có nhiều quan điểm cho rằng Phủ thứ tư là Nhân phủ của Mẫu Liễu Hạnh, cũng có người cho rằng Liễu Hạnh đại diện cho Mẫu Thượng Thiên nên phủ thứ tư là của Địa mẫu. Địa Mẫu cai quản đất đai và sự sinh sôi của các sinh vật.

Với ảnh hưởng đậm nét của mình, tín ngưỡng thờ Mẫu có mặt khắp nơi trên mảnh đất Việt Nam. Ở miền Bắc là hệ thống thờ Mẫu Liễu Hạnh, tín ngưỡng Bà Chúa Kho…; miền Trung là hệ thống thờ Mẫu thần Chăm Pôn Inư Nưgar, Thánh Mẫu Thiên Ya Na…; miền Nam là hệ thống thờ Bà Chúa Xứ, Bà Thiên Hậu, Linh Sơn Thánh Mẫu (Bà Đen)…

Trong hệ thống phong phú và đa dạng của tín ngưỡng, tôn giáo ở Việt Nam, tín ngưỡng thờ Mẫu là một tín ngưỡng điển hình, độc đáo, thể hiện sự đề cao, coi trọng nữ trong đời sống xã hội, mặc dù người Việt chịu ảnh hưởng nặng nề bởi thiết chế chính trị – xã hội phụ quyền “trọng nam” của Nho giáo nhiều thế kỷ. 

Triết lý tôn thờ, đề cao phụ nữ trong nhân sinh quan người Việt được thể hiện qua những yếu tố sau:

Lịch sử văn hóa Đông phương nói chung và Việt Nam nói riêng là một cuộc điều chỉnh từ chế độ mẫu hệ, mẫu cư, mẫu quyền sang chế độ phụ hệ của nhiều cộng đồng người khác nhau. Trong khi đó, văn minh Tây Phương với những xã hội Âu Châu sinh sau đẻ muộn, ra đời khi nhân loại đã “nhảy vọt” qua khỏi thời mẫu hệ, chuyển sang chế độ phụ hệ từ rất lâu. 

Trong khi đó, ở các quốc gia phương Đông, vấn đề mẫu hệ còn được bảo lưu và phản ánh rõ trong đời sống văn hóa, tôn giáo. Trong các truyền thuyết, thần thoại của người Việt cũng ghi lại dấu vết của chế độ mẫu hệ: chuyện Trọng Thủy đi ở rể, chuyện Mẹ Âu Cơ sinh ra bọc trăm trứng, đẻ trăm con. Mẹ – Nữ trở thành biểu tượng của bản thể vũ trụ và cội nguồn vạn vật. Các Bà Mẹ cũng là các vị thần sáng tạo ra văn hóa và các giá trị văn hóa như: Mẹ Lúa, Mẹ Mía, Mẹ Lửa, và các Nữ thần là tổ sư của các nghề: dệt, tằm, làm muối, nghề mộc, trồng bông, làm bánh,… 

Mặc dù có tới hơn ngàn năm Bắc thuộc và chịu sự ảnh hưởng của văn hóa phụ quyền, nhưng các thị tộc Bách Việt lúc đó vẫn muốn duy trì chế độ mẫu hệ trong lối sống. Khi chế độ phụ quyền được xác lập đã nảy sinh vấn đề tranh chấp giữa mẫu hệ và phụ hệ, được phản ánh một cách dữ dội qua bài ca dao: Ba đồng một mớ đàn ông/Đem bỏ vào lồng cho kiến nó tha/Ba trăm một mụ đàn bà/Đem về mà trải chiếu hoa cho ngồi. Người Việt cũng truyền tụng lại cho con cháu nhiều cốt chuyện cổ tích phản ánh đặc trưng của chế độ mẫu hệ, cũng là cách thức phản đối lại chế độ phụ hệ (phản ứng trước sự phân biệt đối xử, sự bất bình đẳng giới). 

Cho đến tận bây giờ, các vùng dân tộc ít người của Việt Nam như người Chăm, Êđê, Giarai, do không chịu ảnh hưởng của văn hóa phụ quyền Trung Hoa, vẫn duy trì chế độ mẫu hệ, vai trò của người phụ nữ vẫn rất lớn: chủ động trong hôn nhân, chồng về ở nhà vợ, con cái đặt tên theo họ mẹ…

Việt Nam nằm trong khu vực nhiệt đới, gió mùa, nóng, ẩm, nhiều ao hồ, đầm lầy, sình bãi, nên thích hợp với nghề trồng trọt. Hoạt động kinh tế của người Việt cổ chủ yếu là nông nghiệp lúa nước. Vì là một nền kinh tế thuần nông với 4 yếu tố cơ bản: nước, phân, cần, giống, với kỹ thuật canh tác: cày, bừa, gieo, vãi, tỉa, cấy, trồng, gặt, đập, và một hệ thống thống thuỷ lợi tưới tiêu… đòi hỏi sự tỉ mỉ, khéo léo, chuyên cần của con người, nên phần nhiều đều do bàn tay người phụ nữ đảm trách, quán xuyến (sớm ra ruộng lúa, tối về nương dâu, vai vác cái cày, tay đuổi con trâu, cái cuốc cho lẫn cái gầu, con dao rựa phát đèo đầu gánh phân…). Ngoài nông nghiệp ra, những công việc thủ công khác như đan lát, thêu thùa, trồng dâu, nuôi tằm, ươm tơ, dệt vải, chăn nuôi… cũng đều cần đến bàn tay của người phụ nữ. Việc buôn bán, tiểu thương cũng do người phụ nữ đảm trách, gánh vác. Có thể nói, người phụ nữ gần như là lao động chính và góp phần đáng kể vào việc sản xuất kinh tế của gia đình (ruộng sâu, trâu nái không bằng con gái đầu lòng), mọi việc nặng nhọc cũng đến lượt người đàn bà phải gánh vác (ngay cả việc đánh giặc). Nên vai trò kinh tế của người phụ nữ trở nên rất quan trọng, trong gia đình, dù người đàn ông được coi là trụ cột, nhưng về mặt kinh tế, người chồng chỉ là “cái giỏ”, vợ mới là “cái hom”, không có cái hom, bao nhiêu cá trong giỏ đều trôi đi hết (của chồng nhưng công vợ) [40, tr. 55].

Trong quan hệ gia đình, người mẹ vẫn là nhất (Cha sinh không bằng mẹ dưỡng), hoặc ít ra cũng ngang hàng với người Cha (Công cha như núi Thái sơn/Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra/Một lòng thờ mẹ, kính cha…). 

Ngoài xã hội, người phụ nữ vẫn được coi trọng (có quyền xưng Vương: Bà Trưng, Bà Triệu; lệnh ông không bằng cồng bà), người Việt cũng không quá coi rẻ, xem khinh người phụ nữ đến độ xếp họ vào hạng tiểu nhân, không hiện hữu. Xã hội không quá bắt ép người phụ nữ phải tuân thủ một cách cứng nhắc thuyết Tam tòng (tại gia tòng phụ, xuất giá tòng phu, phu tử tòng tử) của Nho giáo, không lên án hành vi tái giá. Trong xã hội phong kiến Khổng giáo “trọng nam, khinh nữ”, nữ giới không được đi học, không được dự cuộc thi tam trường để đóng góp công sức vào quốc sự. Thế nhưng, đất Việt đã sản sinh ra những Ngô Chi Lan (thế kỷ XV), Đoàn Thị Điểm (thế kỷ XVIII), Hồ Xuân Hương (thế kỷ XVIII – đầu thế kỷ XIX), Bà Huyện Thanh Quan tức Nguyễn Thị Hinh (thế kỷ XIX), Sương Nguyệt Ánh (cuối thế kỷ XIX – đầu thế kỷ XX)… với những sự nghiệp thi ca to lớn.

Với vị trí quan trọng của người phụ nữ như vậy, nên dù chịu ảnh hưởng rất nặng nề của chế độ Phong kiến phụ quyền, trọng nam, khinh nữ từ Nho giáo nhiều thế kỷ nhưng văn hóa của người Việt vẫn thiên về Mẫu tính. Đây chính là một trong những cơ sở để người phụ nữ được tôn vinh và có được vị trí trên điện thờ như các bậc thánh thần.

Thêm nữa, người Việt có lối tư duy phồn thực, đề cao những yếu tố Sinh, Dưỡng, Dục (Sinh sản/dục; Nuôi dưỡng; Giáo dục), mà những yếu tố đó, trong quan niệm của người Việt đều là thuộc tính của Mẫu: Người phụ nữ là cội nguồn của mọi sự sinh sản (mẹ Âu Cơ sinh ra một bọc trăm trứng), người phụ nữ là trọng tâm và điều hòa mối quan hệ dục tính trong gia đình, người phụ nữ là biểu tượng của ước vọng phong đăng, phồn thực, đâm chồi, nảy lộc, đơm hoa, kết trái, là biểu tượng cho sự trường tồn của giống nòi. Người mẹ cũng là trung tâm của gia đình, nuôi dưỡng, chăm sóc, giáo dục con cái (cha sinh không bằng mẹ dưỡng; con hư tại mẹ, cháu hư tại bà; con dại cái mang; phúc đức tại mẫu) [40, tr. 56].

Trong truyền thống cũng như hiện tại, tinh thần của những cư dân nông nghiệp định cư là coi trọng ngôi nhà và gian bếp, hai nơi quan trọng đó, đều được gắn với vị trí của người đàn bà (Đàn ông cắm chà, đàn bà làm tổ; Xem trong bếp, biết nết đàn bà; Đàn bà chết thì khách đầy nhà, đàn ông chết thì cỏ gà đầy sân…). Với một nền kinh tế thuần nông, nên người Việt coi trọng Đất, mà Đất lại được gắn với yếu tố Âm – Nữ – Mẹ (trời Cha, đất Mẹ). Và cũng có lẽ, bởi người đàn bà quản hết kinh tế trong gia đình (quản gia) nên họ cũng là người quan trọng trong mối dây liên lạc với họ hàng, làng nước, quê hương, điều đó chứng tỏ, người phụ nữ có một vị trí rất quan trọng trong cuộc sống từ xa xưa cho đến tận ngày nay vẫn vậy [40, tr. 57].

Nói tóm lại, với sự phân tích về lịch sử, về kinh tế, văn hóa, tâm lý, ý thức… và mọi nguồn tư liệu khác đã cho thấy, vào thời kỳ khai thiên lập địa và nhiều thế kỷ sau đó, vị trí, vai trò của người phụ nữ đã được khẳng định trên nhiều lĩnh vực khác nhau của đời sống xã hội, không những thế, họ còn được tôn vinh, tôn thờ như những bậc thánh thần có một sức mạnh siêu nhiên, sáng tạo ra vũ trụ, muôn loài. 

Xã hội Việt, văn hóa Việt đã trải qua bao thăng trầm, đã biết bao lần hội nhập, dung hòa với những luồng văn hóa, văn minh song vẫn lưu giữ cơ tầng bản địa với nguyên lý trọng Nữ (cả từ trong vô thức chứ không chỉ ý thức). Truyền thuyết về việc 50 người con theo Mẹ Âu Cơ ở lại vùng núi; việc Trọng Thuỷ ở rể và Mỵ Châu coi giữ nỏ thần; hiện tượng Hai Bà Trưng, Bà Triệu…; tín ngưỡng thờ Nữ thần… đã chứng thực điều đó. Có thể nói, dù trải qua nhiều thăng trầm của lịch sử, chịu ảnh hưởng nặng nề của nền văn hóa Nho giáo và những định kiến của xã hội phong kiến, dân tộc Việt Nam vẫn luôn tôn thờ và đề cao nữ giới, vẫn tôn sùng họ lên hàng thánh thần, và mặc nhiên, trong tâm thức, luôn coi trọng người phụ nữ. Triết lý nhân sinh ấy trở thành một trong những truyền thống tốt đẹp của dân tộc, góp phần đưa hình ảnh đất nước Việt Nam trở nên dân chủ, văn minh trong mắt bạn bè quốc tế.

2.2.2. Quan niệm “phồn thịnh” qua tín ngưỡng phồn thực

Ngay từ thuở ban đầu sơ khai, duy trì và phát triển sự sống đã là một nhu cầu thiết yếu nhất của con người. Đối với văn hóa nông nghiệp, hai việc này lại càng quan trọng. Để duy trì cuộc sống, cần cho mùa màng tươi tốt; để phát triển sự sống, cần cho con người sinh sôi. 

Từ một thực tiễn chung này, tư duy cư dân nông nghiệp Nam Á đã phát triển theo hai hướng: những trí tuệ sắc sảo đi tìm quy luật khoa học để lí giải hiện thực và họ xây dựng được triết lí âm dương; những trí tuệ bình dân nhìn thấy ở thực tiễn đó một sức mạnh siêu nhiên, bởi vậy mà sùng bái nó như thần thánh, kết quả là xuất hiện tín ngưỡng phồn thực (phồn = nhiều, thực = nảy nở). Ở Việt Nam, tín ngưỡng phồn thực từng tồn tại suốt chiều dài lịch sử, là loại hình tín ngưỡng tôn thờ sự sinh sản, sinh sôi, nảy nở của cả giới tự nhiên và con người để duy trì và phát triển sự sống. Vì cầu mong sự sinh sôi, nảy nở nên con người tôn thờ hai đối tượng cơ bản được coi là công cụ của sự sinh sản, đó Sinh thực khí và Hành vi giao phối.

Sinh thực khí nghĩa là công cụ để thực hiện hành vi sinh đẻ, với hai biểu tượng cơ quan sinh dục nam, nữ mà người Ấn Độ gọi là Linga, Yoni, còn người Việt gọi là Nõ, Nường.

Hành vi giao phối cũng được coi là biểu tượng thiêng liêng của sự sinh sản, người xưa đã “thần thiêng hoá” hành vi đó vì cho nó là cội nguồn của mọi sự sinh sản. Họ cũng quan niệm rằng, hành vi giao phối của người và vật sẽ là nguồn cảm hoá cho đất trời, thiên nhiên cây cỏ cùng sinh sôi, nảy nở. Do đó, họ tôn thờ hành vi này, tạc tượng nó, mô hình hoá nó và thờ cúng ở những nơi trang nghiêm [75, tr.168-169].

Tín ngưỡng Phồn thực ở Việt Nam được hình thành từ rất sớm, từ thời kỳ văn hóa Phùng Nguyên (2000 – 700 Tr.CN). Các nhà khảo cổ học đã tìm thấy tượng đá ở Văn Điển (1000 năm Tr.CN), và nắp thạp đồng ở Đào Thịnh, Yên Bái (thế kỷ V Tr.CN) có khắc hình những cặp nam nữ đang trong trạng thái giao hoan.

Ngày nay, người Việt đã giã từ lối thờ sinh thực khí và hành vi giao phối, song tín ngưỡng này không hề bị mất đi, không giải thể, mà nó vẫn tồn tại, bị che phủ, gói ghém bằng các lớp áo văn hóa khác.

Có lẽ, sẽ có nhiều người thắc mắc rằng, tại sao tín ngưỡng phồn thực lại phổ biến và được tôn thờ đến như vậy, trong khi hầu hết các tộc người trên thế giới đều nhận thức vấn đề đó là riêng tư. Để lý giải câu hỏi này, chúng ta cần phải lùi lịch sử về một khoảng thời gian đủ dài để nhận thức được sự sống, sự sinh sôi nảy nở quý báu đến mức nào. Dường như tín ngưỡng phồn thực ra đời từ rất sớm, có thể là quá trình song hành cùng với những tín ngưỡng khởi thuỷ tôtem giáo. Khi đó, sự sống của con người thật sự quá mong manh so với những thử thách của thiên nhiên, dịch bệnh, thú dữ… Nhân sinh quan cao nhất của con người là “triết lý về sự sinh tồn, sự nảy nở”. Mặt khác, dù bước sang thời kỳ phát triển hơn thì con người vẫn là tài sản quý giá nhất: là lực lượng lao động, là lực lượng chế ngự thiên nhiên. Điều đó đã minh chứng cho sự phổ biến và trường tồn của tín ngưỡng phồn thực trong lịch sử nhân loại.

Đối với người nông dân Việt Nam, cuộc sống trên hết là sự kế tiếp của các thế hệ, là sự sinh sôi, nảy nở, là sự lưu truyền giống nòi. Trong tư duy nông nghiệp thuần phác, tín ngưỡng phồn thực cùng các phạm trù âm – dương, đực – cái, cặp đôi, phối giao… đã hình thành. Phồn thực chính là khát vọng vươn tới một cuộc sống no đủ, cầu cho muôn vật sinh sôi trong xã hội loài người. Ước vọng mãnh liệt ấy được họ thể hiện bằng những hình vẽ tượng trưng Linga và Yoni làm hình trang trí khắp nơi, bằng nét vẽ mô tả cảnh giao phối giữa một đực một cái trên hang đá, trên thạp đồng, trên công cụ sản xuất… 

Có thể nói, tín ngưỡng phồn thực ở Việt Nam là loại hình tín ngưỡng cổ xưa, độc đáo và phổ biến trong đời sống tâm linh của người Việt. Qua biến thiên của lịch sử, tín ngưỡng phồn thực trở thành một thứ trầm tích văn hóa trong văn hóa Việt Nam. Tín ngưỡng ấy thể hiện khát vọng về sự sinh sôi, nảy nở, thể hiện ước vọng phong đăng, phồn thịnh của người dân trong cuộc sống.

Tín ngưỡng phồn thực của người Việt ở Bắc bộ khá đa dạng, phong phú. Do ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa, các biểu tượng phồn thực ở đồng bằng Bắc bộ thường được mô tả một cách kín đáo, tế nhị, mô phỏng hình tượng sinh thực khí, trừu tượng hóa nó và ngầm định nó dưới nhiều đồ vật: chiếc kén tằm bằng gỗ đẽo hình sinh thực khí nam và nữ ở Đồng Kỵ (Bắc Ninh); chiếc dùi gỗ và mu rùa (làm bằng mo cau) trong trò Trám (Lâm Thao, Phú Thọ); một khúc tre và một mo cau trong hội Sơn Đồng (Hà Nội)… [117, tr.155]. Chúng ta còn bắt gặp tín ngưỡng phồn thực trong các lễ hội: hội cướp nõ xé bông (trò ội ại) ở làng Miêng Hạ, Ứng Hòa, Hà Nội; hội cướp kén ở làng Dị Nậu, Tam Nông, Phú Thọ; hội chen ở làng Nga Hòang, Quế Võ, Bắc Ninh,… hay trong các điệu múa truyền thống: Tùng dí (đền Hùng – Phú Thọ), Múa mo (Sơn Đồng, Hà Nội)… [117, tr. 157-185].

Ở khu vực miền núi phía Bắc, tín ngưỡng phồn thực được đặc tả nguyên vẹn hơn: trên Thạp đồng Đào Thịnh (Yên Bái) có khắc hình 4 đôi nam nữ đang trong tư thế giao hoan. Tục thờ sinh thực khí (Nõ – Nường) được thể hiện rõ trong các động tác múa trong lễ Cấp sắc của người Dao Tuyển Bảo Yên…

 Tín ngưỡng phồn thực ở Tây Nguyên có những nét riêng khá độc đáo, được thể hiện sinh động qua lớp tượng ở nhà mồ. Điều đặc biệt trong lớp tượng mang ý nghĩa phồn thực của người Tây Nguyên là việc khắc hoạ hình tượng rất cụ thể. Việc thờ công cụ phục vụ khả năng duy trì nòi giống của người Tây Nguyên được mô tả trần trụi, phóng to, phô trương qua những nhát rìu đục đẽo thô sơ, cứng cỏi, phản ánh rất thực tư duy hình ảnh của họ. Ở nhà mồ Tây Nguyên, ta có thể bắt gặp những bức tượng khắc họa các cặp trai gái phô bày cơ thể, giao hoan rất tự nhiên. Những bức tượng đã phản ánh vẻ nguyên sơ của con người thuở hồng hoang là một minh chứng cho thấy khao khát được sinh tồn của họ trên trần thế.

Trong tín ngưỡng của người Chăm, vị thần được thờ phổ biến nhất là Siva – một trong ba vị thần tối cao. Hình tượng Siva trong các đền thờ được đồng nhất với thờ linga – sinh thực khí nam. Người Chăm tiếp thu văn hóa Ấn Độ giáo, tôn thờ thần Siva, vị thần đầy quyền năng. Linga kết hợp với yoni, sinh thực khí nữ, làm nên mặt bệ thờ hòan chỉnh, là sự hòa nhập âm dương, là biểu tượng sáng tạo sinh sôi của thần Siva. 

Dễ dàng nhận thấy, quan niệm “phồn thịnh” trong tín ngưỡng phồn thực của người Việt được thể hiện rõ nét nhất qua các lễ hội, đặc biệt là các lễ hội nông nghiệp. Các nghi lễ thờ cúng thần nông nghiệp, các ma thuật phục vụ mùa màng, các hình thức khác nhau của tục lệ, kiêng cấm trong trồng trọt, những dị đoan về mối liên hệ giữa tình dục con người với sự mắn đẻ và sinh sôi của vật nuôi, cây trồng đều gắn liền với tín ngưỡng phồn thực [116, tr.66]. Có thể kể đến các lễ hội nông nghiệp mang đậm dấu ấn phồn thực trên phạm vi cả nước: lễ hội Lồng Tồng của người Tày – Nùng ở các tỉnh miền núi phía Bắc; lễ hội rước nước ở một số tỉnh ven sông Hồng; lễ hội mừng lúa mới của người Ba Na (Tây Nguyên); lễ hội cầu mưa của người Chăm (Ninh Thuận, Bình Thuận); lễ hội Ok Om Bok của người Khmer Tây Nam bộ…

Với những cư dân nông nghiệp lúa nước như ở Việt Nam, nghi lễ nông nghiệp được diễn ra ở hầu khắp các công đoạn của việc trồng trọt và hoa màu, nhất là với canh tác nương rẫy. Họ đặt mọi ước vọng vào sự sinh sản, sinh sôi dồi dào của cây trồng, liên tưởng nó với một lực lượng siêu nhiên nào đó, coi đó như là nguồn gốc của mọi sự sinh sản của giống loài. Vì thế, lễ hội chính là phương tiện để truyền tải ước vọng của người nông dân, là biểu tượng nhằm hiện thực hóa thế giới ý niệm về đời sống tâm linh bằng những nghi thức, những hoạt động để con người giao tiếp với thần linh [116, tr.68]. 

Thực hiện các trò diễn, phong tục trong một không khí dân dã nhưng không kém phần linh thiêng, người ta tin rằng lễ thiêng đó sẽ tác động tới mùa màng, cây trồng, vật nuôi để có được vụ mùa bội thu. Sâu xa hơn, các trò diễn, phong tục ấy còn là sự thể hiện ước mơ, khao khát đậm chất “dục”, để thỏa mãn những nhu cầu bản năng của con người, với mong muốn duy trì nòi giống, con cái đề huề, phúc lộc đầy nhà theo quan niệm của người Việt cổ. Với rất nhiều biểu hiện thông qua các nghi thức khác nhau, các tục lệ khác nhau, những người làm nông nghiệp vẫn gửi gắm được mong ước chung của mình về sự an khang của con người, sự thịnh vượng của mùa vụ. Đó chính là đặc trưng tinh thần của các nghi lễ phồn thực.

Tuy tín ngưỡng phồn thực ở nước ta chưa có điều kiện để vươn lên tầm cao trở thành vũ trụ luận hay hình thành một văn hóa tính dục, khoa học tình dục như ở Trung Hoa và Ấn Độ, nhưng nó lại lan tỏa theo bề rộng, ăn sâu vào các lĩnh vực của đời sống xã hội và đời sống cá nhân để trở thành dấu ấn và tâm thức cả cộng đồng. Thông qua các quan niệm của tín ngưỡng phồn thực, nhất là triết lý âm dương đã góp phần vào việc hòan thiện thế giới quan và nhân sinh quan của người Việt. Mọi quá trình phát sinh, phát triển của thế giới và con người đều là sự dung hợp, hòa quyện giữa âm và dương, nam và nữ, đực và cái… Tín ngưỡng phồn thực không tồn tại như một bản sao văn hóa – tôn giáo mà biến thành một thực thể sống động thông qua các biểu tượng phồn thực trong các loại hình văn hóa Việt Nam, tạo nên nét đặc trưng, độc đáo cho nền văn hóa dân tộc.

Có thể thấy, tín ngưỡng phồn thực có vai trò rất quan trọng trong đời sống tâm linh của người dân Việt Nam từ xưa đến nay. Tín ngưỡng này đã tồn tại từ rất lâu và đến nay vẫn được duy trì, thể hiện dưới nhiều dạng thức khác nhau, với các hình thức thờ và trò diễn, phong tục mang tính phồn thực rất phong phú, đa dạng. Ý niệm, ước vọng về sự phồn vinh của con người cùng với cây trồng, vật nuôi luôn chi phối hoạt động sống của người Việt, vun đắp thành một triết lý sống “phồn thịnh”, “trọng thịnh” của dân tộc. Một dân tộc nhỏ bé nhưng luôn căng tràn khát vọng sống, nuôi dưỡng khát vọng vươn lên, phát triển, thịnh vượng thì nhất định sẽ tồn tại cứng cáp và mạnh mẽ trong mọi hòan cảnh. Lịch sử đã minh chứng cho tính đúng đắn trong lối tư duy phồn thực của người Việt.

2.2.3. Lối sống “hòa mình” với tự nhiên qua tín ngưỡng thờ nhiên thần

Sùng bái tự nhiên là giai đoạn tất yếu trong quá trình phát triển của con người. Với người Việt Nam sống bằng nghề nông nghiệp lúa nước, thì sự gắn bó với tự nhiên lại càng dài lâu và bền chặt. “Nhận thức được các sức mạnh tự nhiên đến từ bầu trời, từ trong lòng đất và từ sông nước, người Việt Nam thời cổ chủ trương hòa hợp và kêu gọi sự trợ giúp của tự nhiên bằng việc tôn thờ các sức mạnh đó” [11, tr. 44].

Tín ngưỡng thờ nhiên thần của người Việt vô cùng phong phú và đa dạng, các đối tượng được tôn thờ trong loại hình tín ngưỡng này có thể kể đến:

Trước hết, đó là Bà Trời, bà Đất, Bà Nước – những nữ thần cai quản các hiện tượng tự nhiên, quan trọng nhất, thiết thân nhất đối với cuộc sống của người làm nông. Về sau, tuy do ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa gốc du mục nên có thêm Ngọc Hòang, Thổ Công, Hà Bá, song tục thờ bộ ba nữ thần này vẫn lưu truyền trong dân gian dưới dạng tín ngưỡng thờ Tam phủ, Tứ phủ. 

Tiếp theo là các thần Mây – Mưa – Sấm – Chớp – những hiện tượng tự nhiên có vai trò hết sức to lớn trong cuộc sống của cư dân nông nghiệp lúa nước. Khi Phật giáo du nhập vào Việt Nam, nhóm nữ thần này được nhào nặn thành hệ thống Tứ Pháp: Pháp Vân (thần Mây) thờ ở chùa Bà Dâu, Pháp Vũ (thần mưa) thờ ở chùa Bà Đậu, Pháp Lôi (Thần Sấm) thờ ở chùa Bà Tướng, Pháp Điện (Thần Chớp) thờ ở chùa Bà Dàn (các chùa này đều thuộc tỉnh Bắc Ninh) [3, tr. 133-134].

Thờ sơn thần là một hiện tượng phổ biến ở Việt Nam, thể hiện thành một hệ tương đối thống nhất – đó là hệ Sơn Tinh – Tản Viên. Ở Việt Nam, Tản Viên được người Kinh và người Mường thờ cúng ở nhiều nơi, nhưng tập trung nhất là ở khu vực núi Ba Vì – vùng đất gốc của hệ sơn thần ở nước ta.

Là một trong những vị thần sáng giá nhất của thần điện người Việt, Tản Viên Sơn thần hội tụ hầu hết các đặc điểm cơ bản của loại hình thờ cúng bách thần ở Việt Nam… Sơn Tinh cũng là vị thần có nhiều công tích nhất ở Việt Nam, từ đánh giặc ngoại xâm, trị thủy thiên nhiên đến dạy nghề cho dân chúng, nên được gọi là “ông tổ trăm nghề”, cũng là vị thần đa dạng nhất và phong phú nhất về huyền thoại và thần tích [23, tr.107].

Trong mảng tín ngưỡng sùng bái giới tự nhiên còn có việc thờ động vật. Rắn là loài phổ biến hơn cả ở vùng sông nước, do vậy, thuộc loại động vật được sùng bái hàng đầu ở Việt Nam.

Trong văn hóa dân gian của người Việt ở đồng bằng sông Hồng, rắn là một hình tượng phổ biến và có sức ám ảnh mạnh mẽ nhất. Có thể thấy tục thờ rắn ở các đền dọc theo sông Hồng, sông Cầu, sông Đuống… và qua các di tích, lễ hội… Tục thờ rắn với tư cách là thủy thần không chỉ phổ biến ở đồng bằng Bắc Bộ mà còn có ở miền Trung, Tây Nguyên và cả vùng Tây Nam Bộ. Nhìn chung, tục thờ rắn là một trong những tín ngưỡng nguyên thủy của người Việt cổ. Xuất phát từ môi trường tự nhiên gắn với điều kiện sông nước, đầm lầy, hình tượng rắn đã được đồng hóa với nước, thủy thần và đi vào tâm thức dân gian từ rất sớm và thường gắn với tục thờ các vị thần tự nhiên [51, tr. 77-78].

Có thể nói, tín ngưỡng thờ nhiên thần khá phổ biến trong các cộng đồng người Việt, song lưu truyền và giữ được nét độc đáo phải kể đến những hình thức thờ thần tự nhiên của đồng bào các dân tộc ít người miền núi phía Bắc.

Mỗi dân tộc đều có tập tục truyền thống riêng, họ coi đó là lẽ sống, là giá trị tinh thần không thể thiếu trong đời sống tâm linh. Người Tày, Nùng ở xóm Lũng Túng, xã Kim Loan, huyện Hạ Lang, tỉnh Cao Bằng có phong tục thờ thần cây, thần rừng. Từ xa xưa, người Tày, Nùng khi tìm đất lập bản thường tìm đến dưới chân núi có nhiều cây to làm nhà. Theo quan niệm phong thủy của bà con, làm nhà phải tựa lưng vào núi; rừng nhiều cây to sẽ có khe nước chảy phục vụ cho sinh hoạt và sản xuất. Dựa vào rừng và sống dưới rừng nên họ quan niệm rừng, cây là vị thần bảo vệ cuộc sống bản làng. Vì vậy, nhiều bản làng người Tày, Nùng lập miếu thờ thần rừng, thần cây ngay đầu bản và có hương ước bảo vệ rừng nghiêm ngặt. Hằng năm, vào dịp tết, lễ, cả bản làm lễ cúng tạ ơn thần rừng, thần cây đã bảo vệ bản làng, cầu xin các vị thần cho mưa thuận gió hòa, không bị thiên tai… [30].

Đối với người Mường, đá lại là vật linh được tôn thờ khá nhiều. Người Mường thường thờ những hòn đá có hình thù kỳ lạ, liên tưởng đó là các vị thần, thánh đã giúp con người chinh phục thiên nhiên. Người dân tộc Mường ở Cao Phong (Hòa Bình) ngày nay vẫn còn tồn tại truyền thuyết về thần đá. Bấy giờ, khi khơi dòng lấy nước làm ruộng, gặp phải hòn đá chắn dòng, người dân bẩy đi chỗ khác để nước tiêu thông. Hôm sau, hòn đá lại trở về chỗ cũ một cách kỳ lạ. Người dân tiếp tục đẩy xa hơn nữa nhưng sự lạ vẫn tiếp diễn trong nhiều ngày. Theo lời thầy cúng, người dân bèn mang đá về thờ. Từ đó, cuộc sống được thần đá phù hộ, khiến mưa thuận gió hòa. Tục thờ thần đá của người Mường mang ý nghĩa cầu mùa màng tốt tươi, thiên thời địa lợi cho sản xuất và sinh hoạt của con người [108].

Nhìn chung, tín ngưỡng thờ nhiên thần của các dân tộc thiểu số miền núi phía Bắc nước ta có thể coi là những giá trị văn hóa độc đáo cần được bảo tồn và gìn giữ. Theo thời gian, các loại hình tín ngưỡng của đồng bào có sự thay đổi, thích nghi với hòan cảnh song vẫn giữ nguyên ý nghĩa nhân sinh quan, vũ trụ luận của người xưa về cuộc sống, nhất là quan niệm về sự gắn bó giữa con người với tự nhiên – đó là những bài học mà người Kinh chúng ta cần tìm hiểu và học hỏi.

Tín ngưỡng thờ nhiên thần của các cộng đồng người Việt thể hiện một triết lý sống hài hòa giữa con người với giới tự nhiên. Triết lý ấy có căn nguyên từ đâu? Vì sao người Việt lại tôn sùng tự nhiên đến như vậy? Có thể lý giải từ các khía cạnh sau đây:

Một là, với một đất nước nông nghiệp nằm trong khu vực nhiệt đới ẩm gió mùa như Việt Nam, điều kiện tự nhiên đóng vai trò quyết định đến hoạt động sản xuất và sinh hoạt của người dân. Về điều kiện thuận lợi, nền nhiệt ẩm cao, khí hậu phân mùa tạo điều kiện phát triển nền nông nghiệp lúa nước, tăng vụ, đa dạng hóa, nâng cao năng suất cây trồng vật nuôi,… Song bên cạnh đó là những khó khăn do tính chất của vùng nhiệt đới ẩm gió mùa: các hoạt động giao thông vận tải, khai thác tài nguyên… chịu ảnh hưởng trực tiếp của sự phân mùa khí hậu, chế độ nước của sông ngòi. Độ ẩm cao gây khó khăn cho việc bảo quản công cụ, nông sản. Các hiện tượng thời tiết bất thường như giông, lốc, mưa đá, sương muối, rét hại, khô nóng… ảnh hưởng lớn đến sản xuất và đời sống. Các thiên tai như mưa bão, lũ lụt, hạn hán gây tổn thất rất lớn cho sản xuất, thiệt hại về người và tài sản. Tất cả những “diễn biến” của thời tiết, khí hậu, thổ nhưỡng… ảnh hưởng trực tiếp đến đời sống sản xuất và sinh hoạt của người dân, vì thế, đối với họ, giới tự nhiên càng “thuần”, càng “hiền” (không gây thiên tai) thì càng thuận lợi cho cuộc sống của họ, do vậy, từ trong tâm thức, họ luôn mong cầu thiên nhiên mưa thuận gió hòa để họ có thể yên tâm làm ăn, sinh sống: Trông trời trông đất trông mây/Trông mưa trông nắng trông ngày trông đêm/Trông cho chân cứng đá mềm/Trời im bể lặng mới yên tấm lòng; Lạy trời mưa xuống/Lấy nước tôi uống/Lấy ruộng tôi cày/Lấy đầy bát cơm/Lấy rơm đun bếp… Từ đó, nảy sinh nhu cầu tôn thờ những “vị thần” thuộc giới tự nhiên.

Hai là, với một nền kinh tế thuần nông, tương đối lạc hậu, công cụ lao động thô sơ nên người Việt xưa chưa biết cải tạo tự nhiên mà chủ yếu nương tựa vào tự nhiên, “sống” nhờ vào tự nhiên. Khi chưa biết trồng trọt, chăn nuôi, nguồn thức ăn sẵn có từ thiên nhiên cũng đủ nuôi sống con người thời đó, đấy là quả ngọt trên cành, là cá dưới sông, suối, là thỏ, sóc, hươu, nai trong rừng… Qua quá trình lao động (săn bắt, hái lượm), con người dần biết tạo ra công cụ lao động, dù rất thô sơ nhưng cũng giúp họ thuận lợi hơn trong việc mưu sống. Có thể nói, với điều kiện dân số trong lịch sử, nguồn tài nguyên thiên nhiên của Việt Nam khá dồi dào, đủ khả năng đáp ứng nhu cầu của con người. Do vậy, người Việt xưa coi giới tự nhiên chính là “nguồn sống” của mình, coi tự nhiên như là người bạn thân thiết, gắn bó chặt chẽ với mình, từ đó mà có thái độ “hòa”, “tuân phục”, “phục tùng” giới tự nhiên, tạo nên thế ứng xử “hòa mình” với thiên nhiên, tôn trọng quy luật tự nhiên của người Việt: Gió thổi là chổi trời; Địa linh nhân kiệt; Ăn ở xởi lởi thì trời cởi cho/Ăn ở quanh co trời gò của lại; Ơn trời mưa nắng phải thời/Nơi thì bừa cạn nơi thời cày sâu/Công ơn chẳng quản bao lâu/Ngày nay nước bạc, ngày sau cơm vàng/Ai ơi chớ bỏ ruộng hoang/Bao nhiêu tấc đất tấc vàng bấy nhiêu…

Ba là, lối sống hòa mình với thiên nhiên được thể hiện qua tín ngưỡng thờ nhiên thần còn có thể được lý giải bởi sự ảnh hưởng của các hệ tư tưởng, các lý thuyết tôn giáo phương Đông đến tư duy người Việt. Những quan niệm về con người – giới tự nhiên trong Tam giáo đã ảnh hưởng đến tư duy người Việt về mối liên hệ của họ với thiên nhiên.

Lý thuyết “đạo” của Lão Tử dạy rằng: con người không bao giờ được quên, trong quá trình lao động của mình, không được sử dụng thiên nhiên một cách tùy tiện, bắt nó phục tùng ý muốn của mình một cách không giới hạn như thể nó không có những yêu cầu riêng. Khi hành động như thế, con người đã phản lại thiên nhiên, hành hạ nó hơn là chinh phục và chế ngự nó. Vì thế, phải tôn trọng quy luật của giới tự nhiên, không chế ngự và can thiệp quá sâu vào thiên nhiên dẫn đến phá hỏng sự cân bằng của vũ trụ, trời đất và vạn vật… [38, tr.58].

Nho giáo chủ trương giáo hóa con người phải tôn trọng tự nhiên, sống hòa hợp với thiên nhiên thì thiên nhiên cảm ứng cho mưa thuận gió hòa, mùa màng tốt tươi, con người được no đủ, do đó, các bậc quân vương thay trời trị dân, phải sửa mình, tu thân tích đức để cảm hóa lòng trời sao cho thiên thời, địa lợi, nhân hòa thì nghiệp đế vương mới vững bền, muôn dân được sung túc, no đủ: “đứng đắn thì mưa phải thời, an ổn thì nắng phải thời, mưu trí thì lạnh phải thời, thánh minh thì gió phải thời” hay “ngông cuồng thì mưa tuôn, tiêm loạn thì nắng luôn, uể oải thì ấm luôn, nóng nảy thì lạnh luôn, u mê thì gió luôn” (Kinh Thư, Thiên Hồng phạm, Trù thứ 8) [48, tr. 402].

Quan điểm của Phật giáo về mối quan hệ tác động qua lại giữa con người và thế giới bên ngoài (giới tự nhiên) mà Phật gọi là Nhân duyên (chư pháp tòng duyên sinh, chư pháp tòng duyên diệt/mọi vật sinh ra hay mất đi đều bởi nhân duyên) mang ý nghĩa: mọi hành vi đều gây các ra hậu quả tất yếu của nó, các hậu quả này trước hay sau sẽ quay ngược lại tác động vào chính chủ thể của hành vi ban đầu. Trong ứng xử với thiên nhiên, mà Phật gọi là tha nhân (xem như là một tồn tại khác cùng con người) cũng cần phải chú trọng đến luật Nhân – Quả: không có vật thể nào có thể tồn tại độc lập mà chúng phải nương tựa vào nhau, tồn tại hài hòa nhau. Vật này có, cho nên vật khác có, cái này không thì cái kia cũng không, vật này sinh, cho nên vật khác sinh, mà cái này diệt thì cái kia cũng diệt… [38, tr. 60].

Tất cả các lý thuyết tôn giáo ấy đã ảnh hưởng đến tư duy người Việt trong việc ứng xử với tự nhiên. Đó là lối sống hòa mình, tuân phục thiên nhiên, nương tựa vào thế giới tự nhiên trong quá trình sống, tồn tại, mưu sinh của người Việt. 

Bốn là, do ảnh hưởng của triết lý Tam tài (Thiên – Địa – Nhân) mà người Việt luôn có xu hướng tôn trọng thiên nhiên, tôn trọng quy luật phát triển hài hòa của giới tự nhiên. Tác giả Trần Ngọc Thêm trong cuốn Cơ sở văn hóa Việt Nam nhận định: với lối tư duy tổng hợp và biện chứng quen thuộc, người xưa sớm nhận ra rằng các cặp âm dương tưởng chừng riêng rẽ như trời – đất, trời – người, đất – người thực ra có mối liên hệ rất chặt chẽ với nhau, tạo nên một mô hình hệ thống gồm ba thành tố. Trong tam tài “Trời – Đất – Người” này, Trời dương, Đất âm, còn Người ở giữa (âm so với Trời, nhưng dương so với Đất) [93, tr.62]. Nhìn sự vận động, phát triển trên mối quan hệ Trời – Đất – Người, trong đó con người là khâu trung gian nối Trời với Đất đã cho thấy tư duy “trung dung”, “chiết trung” của người xưa, luôn nhìn nhận sự vật hiện tượng một cách quân bình và linh động, có đấu tranh cho sự sinh sôi, mới mẻ, nhưng là đấu tranh để đi tìm sự thống nhất, hài hòa chứ không triệt tiêu cái đối lập. Học thuyết Tam tài góp phần làm cho tư duy người Việt cân bằng trong các mối quan hệ, từ đó hình thành nên lối sống “hài hòa” của con người với thế giới tự nhiên xung quanh mình.

Có thể nói, tư duy về mối quan hệ giữa con người với thiên nhiên đã trang bị cho người Việt một sự nhận thức bước đầu về tự nhiên, biết nắm lấy cái bản thể cốt lõi của thiên nhiên mà hành động cho phù hợp với cuộc sống mưu sinh của mình. Người Việt đã vận dụng những tri thức về tự nhiên đó để vượt lên trên, làm chủ và tự do trước thiên nhiên. Mặt khác, khi người Việt đã biết thích ứng với tự nhiên, chinh phục, cải tạo đến một mức độ nhất định đối với tự nhiên, họ trở nên kiên cường, linh hoạt, năng động hơn trước những biến đổi của thiên nhiên, biết khắc phục và kìm hãm thiên tai trong cuộc sống [77, tr. 49-50].

Không phải quy luật nào cũng nhận thức được, như quy luật sinh – lão – bệnh – tử, cũng không phải quy luật nào cũng cải tạo được, như quy luật của không gian, thời gian…, do đó, phải hòa mình với thiên nhiên, tuân phục thiên nhiên để vừa khai thác tự nhiên một cách hợp lý, cải tạo tự nhiên phục vụ cho những nhu cầu sống của con người, vừa không vi phạm nguyên tắc “triệt tiêu”, phá vỡ thế cân bằng sinh thái vốn có của giới tự nhiên. Con người hòa hợp với tự nhiên thì sẽ là động lực to lớn thúc đẩy kinh tế xã hội phát triển, nếu con người hủy hoại, làm tổn hại đến khả năng tự điều chỉnh của hệ thống tự nhiên thì cũng là làm tổn hại đến chính cuộc sống của mình.

2.3. NHỮNG GIÁ TRỊ TÍCH CỰC, NHỮNG HẠN CHẾ TỪ NHÂN SINH QUAN TRUYỀN THỐNG NGƯỜI VIỆT QUA MỘT SỐ LỄ HỘI VÀ TÍN NGƯỠNG DÂN GIAN

Từ những triết lý nhân sinh của người Việt thể hiện qua một số lễ hội và tín ngưỡng dân gian, chúng ta thấy đặt ra nhiều vấn đề xoay quanh trục giá trị truyền thống. Liệu những quan niệm của người xưa về lẽ sống có còn phù hợp với xã hội hiện tại? Giá trị nhân sinh nào là tích cực, cần bảo tồn và phát huy? Những triết lý nào là bảo thủ, lỗi thời, lạc hậu cần phải loại bỏ trên bước đường hội nhập và phát triển? Trong giới hạn của luận án, chúng tôi cố gắng khái quát những nét cô đọng nhất về các giá trị tích cực cũng như những yếu tố tiêu cực trong nhân sinh quan người Việt qua các lễ hội và tín ngưỡng dân gian đã được khảo cứu ở trên, từ đó, làm cơ sở đề xuất một số giải pháp phát huy những giá trị tốt đẹp, khắc phục những hạn chế của nhân sinh quan truyền thống người Việt trong việc xây dựng nhân sinh quan mới, lối sống mới, con người mới hiện nay. 

2.3.1. Những giá trị tích cực của nhân sinh quan truyền thống qua một số lễ hội và tín ngưỡng dân gian

Nhìn trên tổng thể xã hội, nhân sinh quan truyền thống của người Việt qua một số lễ hội và tín ngưỡng dân gian có nhiều điểm tích cực cần được tiếp tục duy trì và phát huy:

 Thứ nhất, tinh thần yêu nước, tinh thần dân tộc, ý thức quốc gia, lối sống đề cao tính cộng đồng, tập thể của người Việt có mặt tích cực là coi trọng tình làng nghĩa xóm, đề cao tinh thần đoàn kết, hòa thuận, tương thân tương ái, lá lành đùm lá rách, không chấp nhận lối sống hờ hững, vô trách nhiệm. Lối sống cộng đồng này góp phần kìm hãm và hạn chế những biểu hiện của bệnh vô cảm, của sự cạnh tranh một cách ghẻ lạnh trong bối cảnh kinh tế thị trường hiện nay, đồng thời tạo nên sức mạnh của sự thống nhất cùng nhau xây dựng và bảo vệ Tổ quốc. 

Ý nghĩa của sức mạnh đoàn kết, của tính cộng đồng đã được Hồ Chí Minh khái quát lại trong một nhận định về người Việt Nam như sau:  Dân ta có một lòng nồng nàn yêu nước. Đó là một truyền thống quý báu của ta. Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại sôi nổi, nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn, nó nhấn chìm tất cả lũ bán nước và lũ cướp nước [69, tr.171].

Thứ hai, tinh thần hiếu học là một trong những giá trị truyền thống quý báu được hình thành và hun đúc từ dòng chảy lịch sử ngàn đời của dân tộc Việt Nam. Đó chính là tinh thần quả quyết, tính kiên trì, nhẫn nại và ham học hỏi. Sự hiếu học ấy đã tạo điều kiện sản sinh nhiều bậc anh tài, các trung thần, những anh hùng dân tộc…, góp phần quan trọng cho sự nghiệp giải phóng và kiến thiết nước nhà.

Hơn nữa, hiếu học không phải chỉ để được vinh thân mà hiếu học là để có cơ hội tham gia vào việc nước. Người có học được gọi là “sĩ”, chữ Sĩ (viết theo Hán tự) được diễn tả như một người đứng bằng chân trên mặt đất, đầu đội trời, dang rộng hai tay, gánh vác việc đời, việc nước. Làm trai vì nước quên nhà/Nước kia có vẹn thì nhà mới yên – đấy chính là mục đích của sự học. Như vậy, sự hiếu học của người Việt cũng là sự thể hiện tinh thần yêu nước, tinh thần vì cộng đồng.

Hiếu học còn là biểu tượng của ý chí và khát vọng vươn lên thoát khỏi cái đói nghèo, thoát khỏi sự kém hiểu biết: Làm trai cố chí học hành/Lập nên công nghiệp để dành mai sau; Làm người mà được khôn ngoan/Cũng nhờ học tập mọi đường mọi hay/Nghề gì đã có trong tay/Mai sau rồi cũng có ngày ích to… Những tấm gương hiếu học thật sự là những con người đáng được tôn vinh và học tập, vì họ là những người dám thực hiện ước mơ của mình. 

Thứ ba, trong quan hệ hôn nhân – gia đình, người Việt truyền thống rất trọng chữ “chung” (chung thủy), chữ “tình” (tình nghĩa), trong đời sống xã hội, người Việt đề cao chữ “trung” (trung tín) trong quan hệ xã hội, làm ăn, hợp tác…, trọng lối sống nghĩa tình, đôi khi, chữ tình đã vượt lên trên cả lý lẽ, luật pháp. Hiện nay, khi nền kinh tế thị trường phát triển, đặc biệt, khi chúng ta hội nhập kinh tế quốc tế, giao thương với các nền kinh tế tư bản, lúc này “Lý” sẽ áp đảo “Tình”. Trong điều kiện đó, truyền thống coi trọng “Tình” có vẻ không còn phù hợp nữa, nhưng chúng ta vẫn cần phải dung hòa làm cho “Lý” không trở thành thái quá để dẫn đến “vô tình, vô cảm”, thành con người “duy ngã”, ích kỷ; làm cho chữ “Tình” trong thời hiện đại không yếm thế, biến con người thành yếu đuối, nhu nhược, ba phải. Việc thiên về hướng đến sự phát triển; còn Tình sẽ làm cho sự phát triển diễn ra hài hòa, bền vững. Như vậy, chúng ta vẫn duy trì và giữ gìn được bản sắc và “làm mới, hiện đại hóa” nó cho phù hợp với điều kiện, hòan cảnh.

Thêm nữa, việc coi trọng Tình sẽ làm cho việc áp dụng luật pháp uyển chuyển, linh hoạt theo từng địa phương, từng vùng. Luật pháp, dù được xây dựng trên đời sống thực tế, nhưng nó vẫn là “từ ngoài vào, từ trên xuống” áp đặt người dân phải theo, nó vẫn có tính chất lý trí, cứng nhắc, máy móc, không uyển chuyển và nhiều khi không tương thích với những hòan cảnh riêng của từng người dân, từng địa phương. Do đó, người Việt truyền thống đã điều hòa luật pháp của nhà nước (triều đình) bằng Hương ước, bằng tục lệ của làng để có cuộc sống phong lưu, thoải mái và tự tại hơn. Tục “phép vua thua lệ làng” xưa và nay, không có nghĩa là coi thường kỷ cương, phép nước mà phép nước ấy, luật pháp ấy cần phải uyển chuyển, linh hoạt và phù hợp với tâm lý, lối sống của con người. Có như vậy, luật pháp ấy, chủ trương ấy mới đi vào cuộc sống một cách dễ dàng, khả thi hơn, bằng không, nó sẽ gặp phải sự kháng cự mãnh liệt, rốt cục, sẽ trở thành không khả thi, không đi được vào đời sống xã hội và người dân. 

Thiết nghĩ, triết lý nhân sinh duy tình của người Việt vẫn có những mặt tích cực của nó trong mọi mối quan hệ xã hội, dù xã hội phải vận hành theo hướng duy lý, song vẫn rất cần xem xét đến yếu tố tình cảm để con người và xã hội không trở thành một cỗ máy biết nói, biết tư duy. Và duy “Tình”, duy “Tâm” sẽ là nhân tố cơ bản đánh thức thế giới nội tâm, thế giới vô thức trong mỗi con người để họ không trở nên vô cảm trước tha nhân (cả giới tự nhiên và cuộc sống cộng đồng), không đánh mất nhân tính. 

Thứ tư, tư tưởng đề cao, coi trọng vai trò của người phụ nữ từ truyền thống ngàn đời đã góp phần tích cực trong cuộc đấu tranh cho “nữ quyền”, tiến tới thực hiện “bình đẳng giới”.

Nếu như trước đây, người phụ nữ luôn phải khuôn mình theo đạo “tam tòng”, địa vị vợ chồng được phân định rõ ràng: “phu vi thê cương”, “phu xướng phụ tùy”, và người phụ nữ mặc nhiên chấp nhận, chỉ biết suốt đời bó mình trong ngôi nhà với những công việc bếp núc, phụ thuộc vào người chồng… thì dần dần, theo sự biến đổi của lịch sử, vai trò của người vợ đã được “cải thiện” đáng kể. Người phụ nữ được thể hiện năng lực, được tạo điều kiện học hành, phấn đấu, được tham gia công việc xã hội và giữ trọng trách trong các tổ chức, đoàn thể. Thậm chí, trong nhiều gia đình, người vợ trở thành trụ cột kinh tế, sự nghiệp thành đạt, thăng tiến hơn người chồng. 

Với truyền thống “trọng nữ” của cha ông ta trong lịch sử, người phụ nữ Việt Nam “giỏi việc nước, đảm việc nhà” tiếp tục vượt qua mọi thành kiến và thử thách, vươn lên đóng góp tích cực vào các hoạt động xã hội, duy trì ảnh hưởng rộng rãi vai trò của mình trên nhiều lĩnh vực như: tham gia quản lý nhà nước; tham gia xóa đói giảm nghèo; xây dựng gia đình no ấm, bình đẳng, tiến bộ, hạnh phúc; tham gia phòng chống tệ nạn xã hội; thúc đẩy hoạt động đối ngoại nhân dân… Có thể nói, vai trò của phụ nữ Việt Nam được thể hiện ngày càng sâu sắc và có những đóng góp quan trọng trong thành tựu của cách mạng Việt Nam. 

Thứ năm, khát vọng phồn thịnh của dân tộc khiến tư duy người Việt trở nên thực tế, có ý chí vươn lên, có khát vọng làm giàu. Với quan niệm “phù thịnh không phù suy”, người Việt luôn thể hiện ý chí, khát khao vươn lên trong bất kỳ hòan cảnh nào. Dù xuất thân thế nào, gia cảnh ra sao, người Việt vẫn nuôi hòai bão học hành đỗ đạt, thành tài, góp phần báo hiếu cha mẹ, vinh danh dòng tộc và cống hiến cho xã hội. Lối sống cũng trở nên thực tế, họ cần cù lao động, chăm chỉ học hành xây dựng sự nghiệp: Con ơi muốn nên thân người/Lắng tai nghe lấy những lời mẹ cha/Gái thì dệt gấm thêu hoa/Khi vào canh cửi khi ra thêu thùa/Trai thì đọc sách ngâm thơ/Dùi mài kinh sử để chờ kịp khoa/Nửa mai nối được nghiệp nhà/ Trước là đẹp mặt sau là hiển vinh. Thực tế đã chứng minh, những mảnh đất càng khó khăn, nghèo khổ, càng sản sinh ra những người con ưu tú, tài giỏi. Những con người biết vượt qua hòan cảnh để vươn lên mạnh mẽ, có lẽ, cũng do thừa hưởng khát vọng “phồn thịnh” từ ngàn đời của cha ông ta.

Từ lối tư duy thực tế, biết vươn lên làm giàu đã góp phần tạo nên lối sống cần cù, tiết kiệm của người Việt truyền thống. Cần cù được coi là một trong những đức tính điển hình của người Việt, nói như cố giáo sư Trần Văn Giàu “cần cù đến mức anh hùng tột bậc” [29, tr. 165]. Từ xưa đến nay, người Việt vẫn coi trọng đức tính cần cù, tiết kiệm, đề cao nó đến độ “cần cù bù thông minh”, “năng nhặt chặt bị”, “tích cốc phòng cơ”, “buôn tầu bán bè không bằng ăn dè hà tiện”. Lối sống tiết kiệm góp phần ổn định đời sống kinh tế gia đình, xã hội trong điều kiện đất nước còn khó khăn, rèn luyện cách sống biết quý trọng sức lao động, chống lối sống xa hoa, lãng phí theo kiểu “bóc ngắn cắn dài”, “vung tay quá trán”, “ném tiền qua cửa sổ”… 

Nhìn chung, với tư duy “phù thịnh”, người dân lao động Việt Nam đã hình thành một phong cách sống rất thực tế: cần cù trong lao động, sẵn sàng bằng sức lao động bền bỉ để cải tạo thiên nhiên; tiết kiệm trong tiêu dùng, tằn tiện tích luỹ để tái đầu tư, mở rộng sản xuất; quý trọng ruộng đất; có nguyện vọng thiết tha với cuộc sống ấm no, hạnh phúc, có khát vọng vươn đến tự do và công bằng xã hội…

Thứ sáu, lối sống hòa đồng với thiên nhiên khiến người Việt trở nên gần gũi, thích nghi với sự biến thiên thất thường của thiên nhiên và duy trì nền nông nghiệp lúa nước khá thịnh vượng và phát triển. Khi người Việt đã biết thích ứng với tự nhiên, chinh phục, cải tạo đến một mức độ nhất định đối với tự nhiên, người Việt trở nên kiên cường hơn, tính cách linh hoạt, lối sống năng động hơn trước những biến đổi của thiên nhiên, biết khắc phục và kìm hãm thiên tai, lựa theo tự nhiên mà sản xuất và mưu sống. 

Lối sống hài hòa với giới tự nhiên cũng tạo cho người Việt truyền thống những đức tính ôn hòa, nhã nhặn, khiêm nhường. Khiêm tốn, nhún nhường hạ mình, nên dân tộc Việt cũng được xem là một dân tộc biết lấy khiêm nhu làm hậu thuẫn, thắng mà không kiêu căng, thắng xong lại lo cầu hòa, đó là nghệ thuật ôn nhu khôn khéo của nước nhỏ đối với nước lớn, biết làm chiến thuật Tâm công (đánh vào lòng người, không chiến trận mà địch vẫn thua). Lối sống ấy khiến cho cha ông chúng ta qua các triều đại đều rất coi trọng chữ Hòa trong kế sách trị quốc và ngoại giao. Trong ba yếu tố Thiên thời, Địa lợi, Nhân hòa, đạo trị quốc, trước hết, phải lấy việc nhân hòa làm đầu, dân là gốc của nước, có dân tâm, sĩ khí, ắt thay đổi được thời cuộc. 

Tất cả những giá trị tích cực trong nhân sinh quan truyền thống của người Việt, cho đến nay, vẫn là những giá trị chung của cộng đồng, làm nên cái gọi là bản sắc văn hóa của dân tộc Việt, người Việt. 

Nhân sinh quan mới của con người Việt Nam hiện nay không chỉ là sự kế thừa và phát huy nhân sinh quan truyền thống mà còn là điều kiện tồn tại của nhân sinh quan truyền thống và bổ sung nhân sinh quan truyền thống. Dân tộc Việt Nam đã trải qua hàng ngàn năm lịch sử, đã hình thành nhiều phong tục, tập quán tốt đẹp, sự tồn tại của chúng trong lối sống hiện đại thể hiện tính liên tục của nhân sinh quan và bản sắc văn hóa của con người Việt Nam. Hơn nữa, trong lối sống của con người Việt Nam mà chúng ta xây dựng để đáp ứng yêu cầu đổi mới và hội nhập phải là: dân tộc, hiện đại, văn minh. Để làm được điều đó, chúng ta phải biết khơi dậy và phát huy hiệu quả những giá trị tích cực của nhân sinh quan truyền thống như: lòng yêu nước, lòng tự tôn dân tộc, đoàn kết, tương thân tương ái, hiếu học, trọng tình trọng nghĩa…

2.3.2. Những hạn chế của nhân sinh quan truyền thống qua một số lễ hội và tín ngưỡng dân gian

Quá trình nhận thức lại những đặc tính của người Việt và những hạn chế trong nhân sinh quan người Việt là một công việc được nhiều học giả, nhiều nhà nghiên cứu đã làm như Phan Kế Bính, Trần Quốc Vượng, Trần Đình Hượu, Cao Xuân Hạo, Vương Trí Nhàn, Đỗ Lai Thúy,… Trong những tác phẩm bàn về đề tài này, các học giả đều nhận định rằng, ẩn sâu trong tâm lý của dân tộc Việt, thể hiện qua kho tàng folklore, có một thứ tâm lý nguy hiểm của người Việt là tự ảo tưởng về mình và khả năng thành công của chính m nh. Tâm lư đó thể hiện qua những câu chuyện về những ông Trạng chân đất, những ông Trạng Lợn, Xiển Bột, những truyền thuyết, lễ hội mang mầu sắc thần bí hóa, thần thánh hóa công trạng của người Việt.

Nói như vậy để thấy rằng, nhu cầu nhận thức lại chính mình là một nhu cầu cấp thiết đối với người Việt trong hòan cảnh hiện nay, vấn đề tự phê luôn là một trong những vấn đề có tính cách sống còn và cần phải dẹp bỏ một tâm lý coi việc nói về những nhược điểm của dân tộc mình, của chính người Việt mình là một điều cấm kỵ. 

Tuy nhiên, vấn đề đặt ra là việc tổng hợp lại “những thói hư tật xấu” của người Việt phải được tiến hành như thế nào: (1) phải tìm hiểu vấn đề trong chiều sâu chứ không phải chỉ là những vấn đề manh mún, vụn vặt. Không thể chỉ thỏa mãn với việc liệt kê những sự kiện, với những nhận xét, dù hết sức thuyết phục và hấp dẫn về triết lý sống của người Việt; (2) phải giải thích và cắt nghĩa tất cả những biểu hiện đó. Trong phần nghiên cứu này, với phạm vi cho phép, chúng tôi chỉ điểm lại một số hạn chế của nhân sinh quan người Việt qua lễ hội và tín ngưỡng dân gian đã được phân tích ở chương 3.

Một là, tinh thần yêu nước, ý thức cộng đồng, tính gắn kết, cố kết cộng đồng là một trong những đặc điểm nổi bật trong nhân sinh quan người Việt truyền thống. Song, mặt trái của tính cộng đồng là tính cục bộ, kéo bè kéo cánh, ê kíp – đây cũng là một trong những hạn chế khiến người Việt rất khó hòa nhập được với nền kinh tế toàn cầu hoá, vì nếu tham gia vào quá trình kinh tế toàn cầu với một đầu óc cục bộ, vì lợi ích của cá nhân, đơn vị, địa phương thì chính người Việt lại tự hại mình và hại lẫn nhau. Tình trạng níu kéo nhau, không muốn cho người khác hơn mình (khôn độc không bằng ngốc đàn), thói ghen ghét, đố kỵ khi thấy người khác hơn mình, tài năng và thành đạt hơn mình… khiến cho người Việt không tạo ra được một sự hiệp thông thống nhất, dẫn đến việc một người làm thì tốt, ba người làm thì tồi, bảy người làm thì hỏng.

Hai là, truyền thống hiếu học là một đức tính tốt của người Việt, tuy nhiên, mặt trái của hiếu học là hiếu danh, trọng danh. Đi liền với tính trọng danh là thói háo danh, mua danh: được thể hiện rõ qua nạn bằng giả, bằng thật học giả trong xã hội ta hiện nay mà các phương tiện thông tin đại chúng đã nêu ra. Trong một xã hội mà sự thăng tiến của mỗi cá nhân gắn liền với độ cao tăng dần của bằng cấp thì “cuộc đua” để có được bằng nọ, chứng chỉ kia là điều tất yếu. Nhiều người giỏi, tài thực sự, nhưng vì không có đủ bằng cấp mà chấp nhận thua thiệt, không đạt được vị trí xứng đáng, không được mọi người thừa nhận. Không học được để lấy bằng thật thì tất yếu phải mua bằng giả. Ham bằng cấp là một nghịch lý khiến xã hội đang phải chứng kiến những điều dở khóc dở cười, dẫn đến chỉ tiêu bi hài kiểu thành phố phải có 100% cán bộ quản lý là tiến sĩ. Học để lấy bằng cấp đã trở thành gánh nặng công danh chứ không còn là nhu cầu tri thức. 

Hơn nữa, vì chịu ảnh hưởng bởi thứ triết lý nhân sinh “học để làm quan” (với những chuẩn mực về sự dùi mài kinh sử để vượt qua các kỳ thi, đảm bảo cho mình một địa vị xã hội, để hưởng vinh hoa phú quý), nên người Việt học hành thường không đến nơi đến chốn. Ngày nay, vào các thư viện trong các trường Đại học hay các thư viện lớn ở Việt Nam, chúng ta có thể thấy số người đến đọc sách, học tập, nghiên cứu không nhỏ, nhưng theo các cuộc điều tra xã hội học đều cho thấy, số người đến thư viện đọc sách, học tập, nghiên cứu vì say mê khoa học không nhiều, mà họ đến đó đọc sách hay học tập để thi, để hòan thành một chứng chỉ, hay làm xong một việc nhất định nào đó rồi bỏ đấy. Do đó, khi học tập, nghiên cứu, người Việt nặng về giáo điều, sao chép và thuộc lòng các lý thuyết sẵn có. Với lối học “tầm chương” đó đã trói buộc những sáng kiến của con người, kìm hãm lối suy tư phản biện, dẫn đến thiếu tự tin, không dám vượt bỏ quá khứ. 

Ba là, triết lý sống trọng tình nghĩa, duy tình, duy cảm dẫn đến lối sống dung hòa, xu thời, cam chịu, du di, xuề xòa, nhút nhát, tùy tiện, thiếu triệt để, ý thức pháp luật chưa cao – đây chính là nhược điểm đáng kể đối với việc xây dựng nhân sinh quan mới và tác phong công nghiệp gắn với tư duy duy lý trong thời kỳ đổi mới và hội nhập.

Lối sống thiếu triệt để của người Việt bắt nguồn từ triết lý sống duy tình, duy cảm đã góp phần hình thành lối làm ăn tuỳ tiện, manh mún, không biết lo xa, hạch toán, thiếu khả năng lao động liên kết, thiếu đầu óc toan tính trong kinh doanh, sản xuất chủ yếu dựa vào kinh nghiệm, thiển cận, thực dụng, tính tổ chức kỷ luật kém… Lối tư duy và lối sống đó cũng đã hình thành phương thức “ăn xổi, ở thì”, đề cao những lợi ích thiết thực ngay trước mắt chứ ít chú tâm đến những lợi ích chiến lược, lâu dài hay phải làm những gì to tát, lâu bền.

Lối sống du di, xuề xòa của người Việt truyền thống đã tác động không nhỏ đến cuộc sống lao động sản xuất của họ. Với Việt Nam, sản xuất nông nghiệp là sản xuất theo thời vụ (do thời tiết có hai mùa nóng lạnh khác biệt, buộc con người phải sản xuất theo), đã dẫn tới hình thành hiện tượng ngày mùa thì vất vả, đầu tắt mặt tối, còn tháng ba ngày tám thì có nhiều thời gian nghỉ ngơi (nhàn rỗi/nông nhàn). Ở một số vùng có nghề phụ (nghề thủ công), người nông dân dùng thời gian nông nhàn tham gia sản xuất vào các ngành nghề phụ, còn vùng không có nghề thủ công thì người dân coi như rỗi rãi hàng tháng. Do rỗi rãi, không có việc làm thúc giục, đã hình thành ở người Việt tác phong khoan thai, chậm chạp, không tiếc thời gian: Đi đâu mà vội mà vàng/Mà vấp phải đá, mà quàng phải dây/Thủng thẳng như chúng anh đây/Chẳng đá nào vấp chẳng dây nào quàng. Tâm thế quen không tuân thủ chặt chẽ yếu tố thời gian trong lao động sản xuất sẽ là một trở ngại lớn khi người Việt tiếp hợp vào một xã hội công nghiệp – cuộc sống đòi hỏi phải khẩn trương, nhanh chóng, kịp thời thì người Việt vẫn mang theo hành trang của nếp sống “giờ cao su”.

Bốn là, giá trị của triết lý nhân sinh đề cao vị trí, vai trò và thân phận của người phụ nữ/trọng nữ là ở chỗ nó đã dám chống lại thứ văn hóa phụ quyền và nếp sống gia trưởng ăn sâu vào người Việt như một tập tục. Song, thứ văn hóa mẫu quyền, trọng âm đã bị lịch sử vượt bỏ cũng bởi chúng bộc lộ những hạn chế nhất định trong tính hai mặt của nó. Chẳng hạn, thứ văn hóa thiên về âm tính, trọng tình, du di, xuề xóa của người phụ nữ tạo nên tính cách xởi lởi, thích giao tiếp nhưng chỉ ở trong phạm vi của một cộng đồng quen thuộc, còn khi đã vượt ra khỏi phạm vi của cộng đồng đó thì người Việt lại tỏ ra rụt rè, thiếu sự tự tin. Đặc trưng của lối sống trọng âm, thiên về mẫu tính sẽ là lấy tình cảm, lấy sự yêu – ghét làm nguyên tắc ứng xử (yêu nhau yêu cả đường đi, ghét nhau, ghét cả tông ti họ hàng; yêu nhau cau sáu bổ ba, ghét nhau cau sáu bổ ra làm mười; yêu nhau củ ấu cũng tròn, ghét nhau bồ hòn cũng méo…), như vậy, trong lối sống, người Việt thiên về tình hơn lý, đặt tình cao hơn lý, dẫn đến lối sống không nệ luật, tùy tiện, vô tổ chức, vô kỷ luật.

Cũng với triết lý nhân sinh thiên về “âm tính” ấy, người Việt luôn chủ trương nhường nhịn (một sự nhịn là chín sự lành), nhẫn nhục, hy sinh, rút cục hình thành thứ con người – mà Trần Đình Hượu gọi là con người “tiểu kỉ” – cái tôi quá bé nhỏ, cam chịu thân phận hèn mọn, bị động, nhờ ân huệ, khôn khéo lẩn tránh… Dĩ nhiên, theo Trần Đình Hượu, “con người tiểu kỉ” này có lý do và vai trò trong một số hòan cảnh nhất định nào đó. Đây là một hình thức tự vệ cần thiết, giúp người Việt bảo toàn sinh mạng trong những giai đoạn lịch sử khắc nghiệt [52, tr. 10-29]. Tuy nhiên, hôm nay, khi đất nước đang nỗ lực đi vào dòng chảy chung của nhân loại thì “con người tiểu kỉ” nói trên lại trở thành lực cản. Não trạng khép kín, an phận, phụ thuộc, manh mún, tiểu xảo, rình được một cơ hội nào đó thuận tiện thì tìm cách xoay xở, vun vén cho cái tôi nhỏ bé đang làm thui chột óc sáng tạo, tính khách quan, tinh thần tự lập, tự chủ của mô hình nhân cách mới. 

Năm là, lối tư duy phù thịnh đầy thực tế của người Việt có thể dẫn tới lối sống thực dụng, duy vật chất, duy kinh tế.

Lối sống thực dụng làm tha hóa con người, khơi dậy những ham muốn bản năng, chạy theo hưởng lạc, những lợi ích trực tiếp, trước mắt. Khi sự ham muốn đó trở thành mục đích duy nhất, tất yếu dẫn đến sự chiếm đoạt vật chất, bất chấp đạo lý và luật pháp. Lối sống thực dụng là cơ sở của sự chạy theo những tham vọng bất chính, những điều kiện và phương thức sống thiếu lành mạnh, thỏa mãn những nhu cầu tầm thường, làm suy thoái phẩm chất, đạo đức cán bộ và người dân. Đây chính là một trong những nguyên nhân dẫn tới những tệ nạn xã hội: những hành vi tham nhũng, tham ô, hối lộ; bất chấp luật pháp và kỷ cương để thực hiện mục đích làm giàu, buôn bán trái phép; ma tuý, mại dâm, ăn chơi trác táng…. 

Lối sống thực dụng cũng làm xói mòn đạo đức của con người. Trong quan hệ xã hội giữa người với người, những tình cảm lành mạnh bị thay thế bằng những quan hệ vụ lợi, vật chất. Lối sống lạnh lùng kiểu “tiền trao cháo múc” của xã hội tư sản tràn vào xã hội ta dẫn đến tư tưởng xem thường thuần phong mỹ tục, thậm chí xem rẻ nhân phẩm con người. Trong đời sống, họ vô trách nhiệm, không đấu tranh chống cái sai và cũng không ủng hộ, bảo vệ cái đúng… 

Lối sống duy kinh tế, tuyệt đối hoá giá trị vật chất đã góp phần khuếch trương những mặt tiêu cực trong xã hội ta hiện nay. Tư tưởng tuyệt đối hoá điều kiện vật chất và kỹ thuật, lấy phương tiện sống làm thước đo sự phát triển con người và xã hội làm sai lạc đi nhiều giá trị của lối sống theo lý tưởng nhân văn cao đẹp mà ông cha ta đã vun đắp hàng nghìn năm. Lối sống đó ảnh hưởng lớn tới việc xây dựng nhân sinh quan mới cho người Việt Nam nói riêng và sự phát triến đời sống tinh thần phong phú của người Việt Nam nói chung.

Sáu là, ý tưởng về sự hòa hợp với thiên nhiên đã trang bị cho người Việt một sự nhận thức về tự nhiên, biết nắm lấy cái bản thể cốt lõi của thiên nhiên mà hành động cho phù hợp với cuộc sống mưu sinh của mình. Người Việt đã vận dụng những tri thức về tự nhiên đó để biết thích ứng với tự nhiên, chinh phục, cải tạo tự nhiên, biết khắc phục và kìm hãm thiên tai… Song, chính bởi sự gắn bó, thân thiện, hòa mình với thiên nhiên, với trời đất, dẫn đến hình thành ở người Việt lối sống lệ thuộc, trông chờ, ỷ lại vào thiên nhiên ưu đãi, nên dễ sinh ra lười biếng lao động, thực dụng trong việc khai thác tài nguyên thiên nhiên một cách tùy ý, thiếu tôn trọng sự toàn vẹn, tuần hòan của thiên nhiên, thiếu ý thức trong việc vừa khai thác, vừa tái tạo lại nó. 

Lối sống phụ thuộc vào tự nhiên, trong khi đó tự nhiên, thời tiết thì lại luôn thất thường, đỏng đảnh. Đối diện với sự biến thiên đó, đáng lẽ phải biết tìm cách làm chủ và tự do trước thiên nhiên, thì người Việt lại quá lệ thuộc vào “Trời”, nên trong quá trình sống hay lao động sản xuất, người Việt thường tin vào số phận, may rủi, trông chờ vào thiên nhiên, dẫn đến người Việt thường dễ chán nản, chùn bước khi gặp phải khó khăn. 

Những phân tích trên khiến chúng ta phải nhìn lại mình, nhất là trong điều kiện hiện nay, nhận thức lại chính mình là một trong những nội dung quan trọng của sự nghiệp đổi mới, nhận thức những hạn chế của mình để tìm cách khắc phục, vượt qua, phá bỏ những rào cản, những trở lực, những sức ỳ khá nặng nề cho quá trình phát triển của đất nước.

Kết luận chương 3

Trong chương 3, luận án đi sâu làm rõ những vấn đề sau:

Qua kho tàng Folklore Việt Nam, cụ thể là qua một số lễ hội và tín ngưỡng dân gian, những triết lý nhân sinh của người Việt được cô đọng một cách rõ ràng, súc tích nhất. Các giá trị bản nhiên của người Việt được thể hiện trong những loại hình văn hóa dân gian độc đáo, đó là triết lý yêu nước qua lễ hội đền Gióng; tinh thần hiếu học qua lễ hội đền Tống Trân; quan niệm về hôn nhân, gia đình hạnh phúc qua lễ hội Chử Đồng Tử; sự tôn thờ, đề cao người phụ nữ qua tín ngưỡng thờ Mẫu; lối tư duy thực tế, “phồn thịnh” qua tín ngưỡng phồn thực; lối sống “hài hòa” với tự nhiên qua tín ngưỡng thờ nhiên thần… Những quan niệm sống, triết lý sống, nếp sống ấy là truyền thống tốt đẹp mà cha ông ta đã lưu truyền qua nhiều thế hệ, qua bao thăng trầm, biến thiên của lịch sử, tạo nên bảng giá trị cho người Việt Nam hôm nay. Những giá trị nhân sinh ấy cũng lại một lần nữa khẳng định trí tuệ của người Việt xưa, một thứ minh triết bình dân nhưng không kém phần sâu sắc. Tư duy triết học của người Việt từng bước được thể hiện thông qua các loại hình văn hóa dân gian như lễ hội, tín ngưỡng…, góp phần vào việc hình thành, phát triển kho tàng triết lý nhân sinh và làm phong phú thêm lịch sử tư tưởng của dân tộc Việt.

Những triết lý nhân sinh trong các lễ hội và tín ngưỡng dân gian được khảo cứu trong chương này, có thể nói, là những quan điểm sống rất điển hình, phổ biến của người Việt truyền thống. Với nhiều giá trị tích cực, chúng đã trao truyền và ảnh hưởng đến lối sống của người Việt hiện nay. Song, bên cạnh các giá trị tích cực, nhân sinh quan người Việt cũng bộc lộ những hạn chế nhất định, đó là tinh thần yêu nước, tinh thần cố kết cộng đồng và tính cục bộ, địa phương, kéo bè kéo cánh; tinh thần hiếu học và lối học thực dụng, học để làm quan, thi cử vì bằng cấp; quan niệm trọng tình nghĩa, thủy chung và lối sống dung hòa, xu thời, du di, xuề xòa, nhút nhát, tùy tiện, thiếu triệt để; quan điểm sống trọng nữ, trọng âm và lối sống “duy tình”, cá nhân nhỏ bé, thiếu tự tin; lối tư duy phù thịnh đầy thực tế và lối sống thực dụng, duy vật chất, duy kinh tế; lối sống hài hòa với thiên nhiên và lối sống lệ thuộc, trông chờ, ỷ lại vào thiên nhiên, khai thác tài nguyên thiên nhiên một cách thiếu ý thức… Những hạn chế trong nhân sinh quan truyền thống trở thành “lực cản” cho chúng ta trên bước đường phát triển và hội nhập. Vấn đề quan trọng là xác định rõ những hạn chế ấy để có giải pháp khắc phục và loại bỏ, góp phần thúc đẩy nhanh quá trình xây dựng nhân sinh quan mới, lối sống mới cho người Việt Nam hiện nay.

KẾT LUẬN

Nhân sinh quan người Việt là một bộ phận của triết học Việt Nam. Trước đây chúng ta thường chú ý nghiên cứu nhân sinh quan triết học ở các tác phẩm thành văn mà bỏ qua kho tàng văn hóa dân gian/Folklore của dân tộc. Nhiều triết lý ẩn tàng trong Folklore mà triết học không có, do vậy, nghiên cứu Folklore để mở rộng triết học Việt Nam. “Nếu xét ở bình diện phổ thông quần chúng thì nghiên cứu triết lý dân gian còn quan trọng hơn cả nghiên cứu triết lý bác học, triết học, bởi lẽ từ đây rất có thể chúng ta lại tìm ra, phát hiện được cái mạch ngầm sâu thẳm của dân tộc mà tư tưởng bác học chỉ là sự thể hiện bề nổi, bên ngoài” [36, tr. 26]. Nghiên cứu nhân sinh quan người Việt qua Folklore cũng nhằm củng cố giá trị, bản sắc văn hóa dân tộc.

Trong phạm vi nghiên cứu, luận án đã làm rõ những nội dung sau:

1. Nhân sinh quan là những quan niệm, quan điểm mang tính định hướng của con người về mối quan hệ của họ với gia đình, xã hội và môi trường tự nhiên. Nhân sinh quan người Việt là những quan niệm về cuộc sống, gắn với các điều kiện nông nghiệp, nông thôn, nông dân Việt Nam, phản ánh mối quan hệ của người Việt trong các mối quan hệ: lao động – sản xuất, môi trường thiên nhiên, môi trường xã hội, gia đình, dòng tộc, họ hàng…, trong đó, nổi bật là lối sống trọng nghĩa – tình, tinh thần hòa đồng, bao dung… Nhân sinh quan người Việt được thể hiện một cách độc đáo qua kho tàng Folklore/Văn hóa dân gian Việt Nam.

2. Folklore là một chỉnh thể bao gồm nhiều thành tố như ngữ văn dân gian, nghệ thuật dân gian, tri thức dân gian, tín ngưỡng, phong tục, lễ hội. Việc lựa chọn lễ hội dân gian và tín ngưỡng dân gian để khảo cứu vì đây là những loại hình Folklore “động”, bao chứa cả các giá trị vật thể và phi vật thể, là hai loại hình văn hóa dân gian mà trong đó “hội tụ” gần như đầy đủ các loại hình văn hóa dân gian khác, do đó, rất điển hình cho Folklore. Thêm nữa, lễ hội dân gian và tín ngưỡng dân gian là đối tượng nghiên cứu của nhiều ngành khoa học xã hội và nhân văn như văn hóa học, dân tộc học, tôn giáo học…, song lại là những loại hình Folklore ít được khai thác về mặt triết học. Luận án nghiên cứu những triết lý nhân sinh của người Việt ẩn mình trong lễ hội và tín ngưỡng, để qua đó, tìm ra được những tư tưởng triết học bình dân của cha ông ta thời xưa, góp phần bổ sung cho kho tàng tư duy của dân tộc.

3. Các giá trị bản nhiên của người Việt, các triết lý nhân sinh của cha ông ta được thể hiện trong những loại hình văn hóa dân gian độc đáo, đó là triết lý yêu nước qua lễ hội đền Gióng; tinh thần hiếu học qua lễ hội đền Tống Trân; quan niệm về hôn nhân, gia đình hạnh phúc qua lễ hội Chử Đồng Tử; sự tôn thờ, đề cao người phụ nữ qua tín ngưỡng thờ Mẫu; lối tư duy thực tế, “phồn thịnh” qua tín ngưỡng phồn thực; lối sống “hài hòa” với tự nhiên qua tín ngưỡng thờ nhiên thần… Những quan niệm sống, triết lý sống, nếp sống ấy là truyền thống tốt đẹp mà cha ông ta đã lưu truyền qua nhiều thế hệ, qua bao thăng trầm, biến thiên của lịch sử, tạo nên bảng giá trị cho người Việt Nam hôm nay. 

4. Việt Nam đang trên bước đường hội nhập và phát triển, tất cả những giá trị tốt đẹp của nhân sinh quan truyền thống đã từng được người Việt phát huy trong suốt quá trình dựng nước và giữ nước. Giờ đây, những giá trị tích cực đó vẫn giữ vị trí quan trọng trong đời sống tình cảm và quan hệ xã hội của con người Việt Nam và tác động đối với sự phát triển của đất nước. Song, trong điều kiện kinh tế thị trường và hội nhập quốc tế, những hạn chế của nhân sinh quan truyền thống sẽ là rào cản khiến chúng ta thêm khó khăn trên con đường xây dựng đất nước. 

5. Từ việc phân tích các triết lý nhân sinh trong lễ hội và tín ngưỡng dân gian, cùng với việc chỉ ra những giá trị tích cực, những hạn chế của nhân sinh quan truyền thống người Việt qua các loại hình đó, luận án đưa ra dự báo về các xu hướng biến đổi của lễ hội và tín ngưỡng dân gian ở Việt Nam hiện nay, đồng thời, đề xuất một số nhóm giải pháp nhằm phát huy những giá trị tích cực, khắc phục những yếu tố tiêu cực trong nhân sinh quan người Việt. Các xu hướng biến đổi của lễ hội và tín ngưỡng dân gian là: xu hướng “mê tín hóa”; xu hướng thương mại hóa; xu hướng trần tục hóa; xu hướng áp đặt, khuôn mẫu, đơn điệu hóa; xu hướng sân khấu hóa; xu hướng nảy sinh các tệ nạn xã hội và các vấn đề xã hội mới… Các nhóm giải pháp là: (1) nhóm giải pháp tăng cường các hoạt động tuyên truyền, giáo dục để nhân dân hiểu rõ những giá trị văn hóa, lịch sử của lễ hội và tín ngưỡng dân gian; (2) nhóm giải pháp tăng cường công tác quản lý Nhà nước đối với hoạt động lễ hội và tôn giáo, tín ngưỡng; (3) nhóm giải pháp đầu tư cho nghiên cứu khoa học, xây dựng chương trình bảo tồn, khai thác và phát huy các giá trị văn hóa và nhân văn của lễ hội và tín ngưỡng dân gian; (4) một số giải pháp cụ thể khác… Cuộc đấu tranh để cải tạo, khắc phục những yếu tố tiêu cực từ nhân sinh quan truyền thống nhằm xây dựng nhân sinh quan mới, lối sống mới phù hợp với bối cảnh đất nước và thời đại cần một quá trình lâu dài, cùng với đó là sự nỗ lực của cả cộng đồng (dưới sự dẫn dắt, định hướng và tầm nhìn chiến lược của giới lãnh đạo quản lý xã hội; sự tiếp nhận những thành tựu tiến bộ và giáo dục xã hội) và của mỗi cá nhân con người. 

Lược Sử Tộc Việt: Bài khảo luận rất công phu, khảo cứu về nhân sinh quan của người Việt qua folklore (văn hóa dân gian), tuy nhiên có một số vấn đề nhỏ trong bài viết chúng tôi cần bàn qua: 1. Người Việt thời kỳ Đông Sơn và trước đó đã sớm theo chế độ phụ hệ, điều này được thể hiện trong cả các tài liệu lịch sử và tài liệu khảo cổ, vấn đề này chúng tôi đã tìm hiểu trong một bài viết khác. Các biểu hiện được xem như “mẫu hệ”, “mẫu quyền” đều là các biểu hiện thiên về mẫu tính, sự tôn trọng phụ nữ của người Việt, hơn là thể hiện chế độ xã hội. 2. Chuyện Chử Đồng Tử – Tiên Dung được ghi lại trong sách Lĩnh Nam chích quái, là tác phẩm được sáng tác thời Hùng Vương, truyện này cũng thể hiện chế độ đa thê, các vị vua Hùng trong truyện Lang Liêu cũng có thể có nhiều vợ, thể hiện chế độ phụ hệ đa thê ngay từ thời điểm đó, việc tác giả sử dụng truyện này để phân tích về thời trung đại chúng tôi cho rằng chưa thực sự phù hợp. Ngoài những chi tiết này, thì tác phẩm đã khảo cứu rất bài bản và có hệ thống văn hóa dân gian của người Việt. Xin chân thành cảm ơn tác giả.

Nguồn: Phùng Thị An Na, 2015, Nhân sinh quan người Việt qua Folklore Việt Nam, Luận án tiến sĩ chuyên ngành chủ nghĩa duy vật biện chứng và chủ nghĩa duy vật lịch sử, Học viện chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.
https://drive.google.com/file/d/1-jOKwvGI8rZ3m7atMwG23abWxWu8sdGU/view?usp=sharing

Tranh minh họa: Xuân Lam.

Bình luận về bài viết này

Trang web này sử dụng Akismet để lọc thư rác. Tìm hiểu cách xử lý bình luận của bạn.