532. ☀ Người Việt có phải có nguồn gốc bản địa không?

Giả thuyết bản địa là giả thuyết có sức ảnh hưởng khá lớn trong các quan điểm về nguồn gốc của người Việt, giả thuyết này dựa trên quan điểm cho rằng người Việt phát triển trực tiếp từ các văn hóa thời tiền sử tại miền Bắc Việt Nam, hình thành các văn hóa Phùng Nguyên cho tới Đông Sơn. Giả thuyết này đã ảnh hưởng khá lớn tới vấn đề nguồn gốc dân tộc, tạo ra những vấn đề mà chúng ta hầu như không thể tìm được những lý giải hợp lý. Vậy giả thuyết này có cơ sở khoa học hay không? Chúng ta hãy cùng nhau tìm hiểu về giả thuyết này thông qua các phương tiện khoa học, để từ đó xem xét lại vấn đề nguồn gốc dân tộc, nhận diện được nguồn gốc thực sự của dân tộc mình.

I. Các giả thuyết về nguồn gốc bản địa của người Việt:

Trong bài viết “Văn hóa Phùng Nguyên và nguồn gốc dân tộc Việt”, được đăng trong sách “Theo dấu các văn hóa cổ”, Giáo sư Hà Văn Tấn cho rằng văn hóa Phùng Nguyên có nguồn gốc bản địa, người Việt có nguồn gốc từ văn hóa Phùng Nguyên và các văn hóa trong vùng miền Bắc Việt Nam cùng hợp lại, quan điểm của Giáo sư Hà Văn Tấn có thể rút ra từ bài viết này là người bản địa, phát triển tại chỗ, không phải có nguồn gốc từ nơi khác di cư tới. [1]

Trong bài viết: “Nguồn gốc người Việt qua nghiên cứu khoa học liên ngành” của Giáo sư Trịnh Sinh, ông dựa theo các nghiên cứu và cho rằng người Việt có nguồn gốc chính là người “bản địa Tiền Việt Mường” hợp với người Thái cổ di cư về Việt Nam. [2]

Năm 2019, Viện nghiên cứu Vinmec đã công bố nghiên cứu di truyền về nguồn gốc của người Việt [3], theo kết quả nghiên cứu, công trình này kết luận rằng người Việt ít gen Đông Á, người Việt có nguồn gốc chính từ Đông Nam Á cổ đại, ít có sự ảnh hưởng và di cư của các quần thể Đông Á tới người Việt, người Việt có gen gần với người Thái.

Đây là các quan điểm chính của các giả thuyết bản địa về nguồn gốc của người Việt. Các phần tới chúng tôi sẽ tìm hiểu về vấn đề nguồn gốc người Việt thông qua các nghiên cứu di truyền, khảo cổ và nhân chủng học.

II. Người Việt có phải có nguồn gốc bản địa hay không?

Hai công trình lớn cho chúng ta những thông tin quan trọng về nguồn gốc của người Việt, với việc nghiên cứu trên các bộ gen cổ và bộ gen hiện đại, là công trình của Viện nghiên cứu hệ gen Việt Nam và các viện nghiên cứu nước ngoài công bố năm 2019 và công trình của Hugh McColl và cộng sự công bố năm 2019, đều cho thấy người Việt có nguồn gốc từ phía nam Đông Á, cụ thể hơn là từ vùng Dương Tử.

Nghiên cứu của Viện nghiên cứu hệ gen Việt Nam, Viện Nhân chủng và tiến hóa Max Planck Đức, Phòng thí nghiệm động lực học ngôn ngữ của Đại học Lion Pháp năm 2019 đã thể hiện người Việt có nguồn gốc chủ yếu là những người di cư từ Nam Đông Á về Việt Nam cách đây từ 2.700 – 4.000 năm trước [4].

Nghiên cứu gen của Hugh McColl và các cộng sự năm 2018 [5] (hình 9) cũng có quan điểm tương đồng với nghiên cứu của Viện hệ gen Việt Nam hợp tác với các chuyên gia Pháp, Đức. Cả hai nghiên cứu di truyền trên đều dựa trên các bộ gen cổ và các bộ gen hiện đại.

Mô hình di cư ở Đông Nam Á thời tiền sử được xây dựng nên gồm 2 lớp từ châu Phi tới  Đông Nam Á vào khoảng 30.000-60.000 năm trước và từ Đông Á di cư ngược về cách đây 2.700 – 4.000 năm. [5]

Các tuyến di cư chính giữa Nam Đông Á và Đông Nam Á thời cổ đại. [5]

Cư dân Đông Á cổ cũng có nguồn gốc chính là cư dân Đông Nam Á cổ di cư lên khoảng 12000 năm trước theo các nghiên cứu di truyền. [6][7][8][9]

Nghiên cứu gen của Vinmec được tiến hành với số lượng ít các dân tộc nên kết quả đưa ra về nguồn gốc dân tộc chưa ổn, các nghiên cứu trên đã bác bỏ nghiên cứu của Vinmec, người Việt có nguồn gốc chủ yếu từ vùng Đông Á, cư dân Đông Á ở đây phân bố tại vùng Dương Tử, và không liên quan gì tới cư dân văn hóa Hoa Hạ hình thành sau đó. Các đặc trưng cổ vật và kế thừa văn hóa mà chúng tôi dẫn ra sau đây sẽ cho chúng ta thấy được nguồn gốc thực sự của người Việt.

III. Văn hóa Phùng Nguyên và các văn hóa trong vùng Dương Tử:

Người Việt có nguồn gốc từ vùng Đông Á cổ, cụ thể hơn là vùng Dương Tử theo các nghiên cứu di truyền học [4][5]. Cư dân tộc Việt tại miền Bắc Việt Nam có nguồn gốc trực tiếp hơn là từ cư dân của văn hóa Thạch Gia Hà phân bố tại vùng Động Đình, khi di cư về Việt Nam, cư dân tộc Việt đã hình thành nên văn hóa Phùng Nguyên. Hệ thống cổ vật của văn hóa Phùng Nguyên bao gồm đồ ngọc, đồ gốm, đồ đá và cũng đã có sự xuất hiện của kỹ thuật luyện đồng. Hệ thống cổ vật thể hiện trình độ chế tác rất cao, hoàn toàn khác với kỹ thuật chế tác thô sơ của cư dân tiền sử miền Bắc Việt Nam.

Hệ thống cổ vật của văn hóa Phùng Nguyên. [Nguồn: Bảo tàng lịch sử Việt Nam, chụp bởi Gary Todd và báo Kiến Thưc; Cổ vật Phú Thọ, Nguyễn Anh Tuấn – Trịnh Sinh, NXB Văn hóa Thông tin, 2005; Bảo tàng Đền Hùng, dẫn;]

Sự kế thừa truyền thống từ văn hóa vùng Dương Tử được thể hiện rõ trên nhiều loại hình cổ vật, trong đó có nha chương.

Nha chương có nguồn gốc từ văn hóa Đại Vấn Khẩu tại vùng Sơn Đông có niên đại vào khoảng hơn 5000 năm trước công nguyên, khi đó chưa có chức năng đại diện quyền lực chính trị và quân sự, sau đó cư dân tại vùng này đã di cư về vùng Động Đình, Dương Tử, văn hóa Thạch Gia Hà (4600 – 4000 BC) đã có sự kế thừa Nha chương, truyền thống này tiếp tục được kế thừa tại văn hóa Phùng Nguyên khi cư dân tộc Việt di cư về Việt Nam trong khoảng hơn 4000 năm trước. Do vậy Nha chương là vật có nguồn gốc từ truyền thống và sự phát triển của tộc Việt, không phải có nguồn gốc từ các văn hóa Tam Tinh Đôi, Nhị Lý Đầu, hay từ nhà Hạ, nhà Thương như một số nhà nghiên cứu đề xuất.

Nha chương ngọc văn hóa Thạch Gia Hà và Các Nha chương ngọc văn hóa Phùng Nguyên. [Nguồn: 1. Dương Việt Đông 杨越东 (2017). Bộ sưu tập và nghiên cứu ngọc văn hóa Thạch Gia Hà 石家河文化玉器收藏与研究: Nhà xuất bản Chiết Giang. 2,3. Bảo tàng tỉnh Phú Thọ, dẫn.]

Bên cạnh nha chương, thì những chiếc qua bằng ngọc của văn hóa Phùng Nguyên cũng thể hiện rất rõ sự kế thừa truyền thống tại vùng Dương Tử.

Qua ngọc văn hóa Thạch Gia Hà và qua ngọc Phùng Nguyên. (Qua Phùng Nguyên được ghi trong thông tin của bảo tàng là qua đá, tuy nhiên qua đá có màu xám đậm khá dễ nhận biết, theo tư liệu chúng tôi tìm được (dẫn), thì qua đá có màu sắc khác hẳn so với chiếc qua này, do đó đây khả năng là một chiếc qua bằng ngọc.) [Nguồn: 1. dẫn; 2. Bảo tàng lịch sử Việt Nam, Gary Todd, dẫn]

Đĩa bích văn hóa Lương Chử và đĩa bích văn hóa Phùng Nguyên. [Nguồn: 1. Bảo tàng tỉnh Chiết Giang, Trung Quốc, dẫn; 2. Nguyễn Anh Tuấn, Trịnh Sinh, 2005, Cổ vật Phú Thọ.]

So sánh các cổ vật bằng gốm của văn hóa Thạch Gia Hà và văn hóa Phùng Nguyên. [Nguồn: A. (trái) Thạch Gia Hà: 1. Bảo tàng văn minh Trường Giang, dẫn; 2. Bảo tàng Khuất Gia Lĩnh, dẫn; 3. Viện khảo cổ Trung Quốc, dẫn; 4, 5. Viện khảo cổ Hồ Nam, dẫn; B. Phùng Nguyên: Hán Văn Khẩn, Văn hóa Phùng Nguyên, Nhà xuất bản đại học quốc gia Hà Nội, 2005.]

Tính kế thừa qua các giai đoạn tại Dương Tử và miền Bắc Việt Nam qua đồ gốm:

Sự kế thừa xuyên suốt từ thời văn hóa tại vùng Dương Tử, tới Phùng Nguyên qua tới Đông Sơn thể hiện rõ nhất qua nồi gốm cùng với chạc được sử dụng để nấu ăn, đây là đặc trưng được kế thừa liên tục trong các giai đoạn kéo dài tới khoảng 7000 năm.

Cổ vật gốm có thể nói là một loại hình đặc trưng và ít thay đổi qua thời gian, cổ vật gốm tại các vùng có sự di cư tới của các cư dân tộc Việt thể hiện sự tương đồng rất rõ. Nồi gốm cùng chạc gốm như dưới đây được tìm thấy sớm nhất tại tỉnh Hồ Bắc có niên đại vào khoảng 7000 năm TCN, sau khi họ di cư về Việt Nam thì tại văn hóa Phùng Nguyên và Đông Sơn đều tìm thấy loại hình chạc cùng nồi gốm này.

Nồi gốm và chạc gốm tại tỉnh Hồ Bắc, thuộc di chỉ tại văn hóa sông Chengbei, tiền thân của các văn hóa tại trung lưu Dương Tử (vùng hồ Động Đình) có niên đại vào khoảng 7000 năm TCN. [Nguồn: dẫn]

Nồi gốm và chạc gốm tại các văn hóa Phùng Nguyên (A: 1.700-1.500 TCN; B: 2.000 TCN) và văn hóa Đông Sơn. (C: 800 TCN – 200 TCN) [Nguồn: Bảo tàng lịch sử Việt Nam, dẫn lại bởi Huang Mingchong, đường dẫn]

Đồ gốm văn hóa Chengbeixi (A, 5000-3000 BC, Hồ Bắc) và văn hóa Phùng Nguyên (B, 2000 BC, Việt Nam). Các loại hình gốm của văn hóa vùng Dương Tử được kế thừa đầy đủ tại miền Bắc Việt Nam. [Nguồn: 1. Fiorella Rispoli, The Incised & Impressed Pottery Style of Mainland Southeast Asia: Following the Paths of Neolithization, dẫn; 2. Hà Văn Tấn, Prehistoric Pottery in Viet Nam and Its Relationships with Southeast Asia, dẫn]

IV. Các văn hóa “bản địa” và người Việt:

Vậy sự tương tác của người Việt di cư từ vùng phía Nam sông Dương Tử và cư dân “bản địa” tại miền Bắc Việt Nam là như thế nào? Các tài liệu di truyền, nhân chủng, khảo cổ sẽ cho chúng ta thấy nguồn gốc của các cư dân “bản địa Việt Nam” và cư dân văn hóa Phùng Nguyên, và sự tương tác của người Việt và cư dân của các văn hóa này.

Nghiên cứu di truyền của Hugh McColl và cộng sự [5] cũng cho thấy cư dân “bản địa” miền Bắc Việt Nam (Hoabinhian) có gen gần với người Jarawar bản địa Andaman.

Người Hòa Bình có diện mạo tương tự như thổ dân Jarawar, người bản địa Andaman. [5]

Tại di chỉ Mán Bạc, thuộc về văn hóa Phùng Nguyên đã tìm thấy 17 bộ hài cốt, trong đó 7 bộ hài cốt được xác định có 7 bộ hài cốt gần với văn hóa Đông Sơn và người Việt ngày nay, và 5 bộ hài cốt là của cư dân Hòa Bình tại miền Bắc Việt Nam, [10], với tài liệu này, chúng ta thấy được người Việt và các cư dân da đen “bản địa” thời kỳ đó đã chung sống và hòa huyết với nhau. Tỉ lệ cư dân “bản địa” so với người Việt thời kỳ này là không nhiều, do đặc trưng săn bắt hái lượm nên cư dân cổ tại Việt Nam không có sự phát triển về dân số như người Việt làm nông nghiệp lúa nước.

Nghiên cứu di truyền cũng cho chúng ta thấy gen người Việt ngày nay có khoảng 10% gen Hòa Bình.

Gen người Việt và người Dai ngày nay có tỉ lệ: 60% gen Dương Tử, 30% gen Bắc Á (Devil’s Gate), và 10% gen Hòa Bình cổ. [11]

Các nghiên cứu nhân chủng cũng cho chúng ta thấy sự khác biệt rõ rệt giữa nhân chủng các văn hóa “bản địa” tại miền Bắc Việt Nam với các văn hóa Phùng Nguyên và Đông Sơn.

Mô hình nhân chủng học dựa trên 16 phép đo hình thái xương sọ cho thấy cư dân văn hóa Phùng Nguyên và Đông Sơn là người Nam Á., còn các cư dân các văn hóa cổ tại miền Bắc Việt Nam thuộc chủng Australoid da đen săn bắt hái lượm [12]

Tài liệu khảo cổ cũng thể hiện rõ nét những ảnh hưởng và giao lưu của văn hóa Phùng Nguyên với các văn hóa săn bắn hái lượm trong vùng miền Bắc Việt Nam.

Sau cuộc di cư lên phía Bắc của cư dân đồng chủng, thì tại Đông Nam Á vẫn tồn tại một lượng nhất định cư dân văn hóa Hòa Bình sinh sống trong các vùng cao, là tiền thân của các văn hóa tiền sử tại Việt Nam.

Công cụ đá văn hóa Hòa Bình. [13]

Di chỉ kế thừa văn hóa Hòa Bình, và tiếp nối bằng các văn hóa săn bắn hái lượm trong vùng miền Bắc Việt Nam là văn hóa Bắc Sơn, các di vật khảo cổ cho chúng ta thấy trình độ chế tác còn thô sơ, đơn giản.

Công cụ đá văn hóa Bắc Sơn. [14][15]

Di chỉ Mai Pha nằm trong hang Mai Pha tại thôn Mai Thành, xã Mai Pha, thành phố Lạng Sơn, có niên đại vào khoảng 3500 năm trước, nơi đây cũng là nơi xuất hiện của các văn hóa thời tiền sử như Thẩm Khuyên, Thẩm Hai, Phai Vệ, là tiền thân của di chỉ Mai Pha [16]. Di chỉ Mai Pha có nguồn gốc chính là từ các cư dân tiền sử săn bắn hái lượm có làn da đen trong miền Bắc Việt Nam, tuy nhiên họ đã có sự giao lưu và chịu ảnh hưởng khá mạnh của văn hóa Phùng Nguyên trong vùng Phú Thọ, với hệ thống cổ vật thể hiện rất rõ đặc trưng văn hóa Phùng Nguyên với rìu bôn, đục, rìu có vai, và cũng rất khác với văn hóa được cho là tiền thân của nó là văn hóa Bắc Sơn và các văn hóa khác tại miền Bắc Việt Nam. Các cổ vật này có thể được tiếp nhận qua con đường giao thương, trao đổi, hoặc qua ảnh hưởng văn hóa, chúng tôi thiên về khả năng cư dân văn hóa Phùng Nguyên đã bán các đồ đá cho cư dân tại di chỉ Mai Pha.

Đồ đá tìm thấy tại di chỉ Mai Pha. [14]

Các di chỉ sớm hơn hoặc cùng thời tại miền Bắc Việt Nam như Quỳnh Văn, Đa Bút có đồ đá và đồ gốm rất thô sơ, kém hơn rất nhiều so với các loại hình rìu của văn hóa Phùng Nguyên, hay di chỉ thể hiện sự ảnh hưởng của nó là di chỉ Mai Pha.

Đồ đá và đồ gốm văn hóa Quỳnh Văn và Đa Bút. [14]

Như vậy qua những tư liệu này, chúng ta thấy được rằng các văn hóa tại vùng miền Bắc Việt Nam có sự khác biệt rất lớn so với văn hóa Phùng Nguyên về trình độ phát triển, người Việt khi di cư về miền Bắc Việt Nam cũng đã hòa huyết với cư dân “bản địa” Việt Nam thời kỳ đó, không xảy ra mâu thuẫn và diệt chủng như có quan điểm đã đề xuất.

IV. Người Việt có thuần chủng hay không?

Về giả thuyết bản địa của người Việt, chúng dẫn chúng ta tới quan điểm cho rằng người Việt thuần chủng, tuy nhiên chúng ta cần chú ý rằng, thuần chủng gần như là một khái niệm không tồn tại ở vùng lục địa, chỉ ở những hải đảo tách biệt hoàn toàn như đảo Andaman, thì mới có khả năng bảo lưu được gen cổ từ cư dân rời khỏi châu Phi, hầu hết các chủng tộc, sắc tộc khác trên thế giới đều cần trải qua quá trình hòa huyết, biến đổi gen lâu dài để có thể có màu da sáng như ngày nay, cũng như có sự hòa huyết liên tục qua các giai đoạn lịch sử.

Nghiên cứu di truyền cũng cho chúng ta thấy được sự hòa huyết người Việt với người bắc Đông Á với dấu tích tại hang Devil’s Gate [11], cư dân cổ Hòa Bình qua sự hòa huyết này dần dần chuyển thành chủng có làn da sáng, đây là lần hòa huyết đầu tiên, sự hòa huyết còn diễn ra liên tục trong cộng đồng tộc Việt, nên di truyền của người Việt và các dân tộc có nguồn gốc tộc Việt ngày nay cũng rất gần nhau theo nghiên cứu di truyền [4].

Admixture của công trình nghiên cứu của Viện nghiên cứu hệ gen Việt Nam, Viện Nhân chủng và tiến hóa Max Planck (Đức), Phòng thí nghiệm động lực học ngôn ngữ của Đại học Lion (Pháp) cho thấy sự gần gũi trong hệ gen của các dân tộc có nguồn gốc từ cộng đồng tộc Việt như Việt, Mường, Dai, Tày, Thái, Nùng… [4]

Chính vì vậy, chúng ta chỉ có thể nói rằng người Việt ít bị ảnh hưởng gen bởi người Hoa Hạ, chứ chưa đủ cơ sở để kết luận rằng người Việt thuần chủng và không hòa huyết, lai tạp với các sắc dân khác.

V. Kết luận:

Qua các nghiên cứu chúng tôi đã dẫn, chúng ta có thể thấy được giả thuyết cho rằng người Việt có nguồn gốc bản địa chưa có cơ sở khoa học hỗ trợ, các nghiên cứu di truyền cho chúng ta thấy người Việt có nguồn gốc từ vùng Đông Á cổ, di cư về Việt Nam khoảng 4000 năm trước theo các nghiên cứu di truyền học, hình thành nên văn hóa Phùng Nguyên. Cư dân văn hóa Phùng Nguyên thời kỳ này đã hòa huyết và ảnh hưởng tới các cư dân “bản địa” thời kỳ đó, chính vì vậy, gen người Việt ngày nay có khoảng 10% gen của người Hòa Bình.

Lang Linh


Tài liệu tham khảo:

[1] Hà Văn Tấn, bài viết: Văn hóa Phùng Nguyên và nguồn gốc dân tộc Việt, Theo dấu các văn hóa cổ, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội Hà Nội, 1998.

[2] Trịnh Sinh, Nguồn gốc người Việt qua nghiên cứu khoa học liên ngành
http://baotanglichsu.vn/vi/Articles/3096/71888/nguon-goc-nguoi-viet-qua-nghien-cuu-khoa-hoc-lien-nganh.html

[3] Le VS, Tran KT, Bui HTP, Le HTT, Nguyen CD, Do DH, Ly HTT, Pham LTD, Dao LTM, Nguyen LT. A Vietnamese human genetic variation database. Hum Mutat. 2019 Oct;40(10):1664-1675. doi: 10.1002/humu.23835. Epub 2019 Jul 3. PMID: 31180159.

[4] Liu D, Duong NT, Ton ND, Van Phong N, Pakendorf B, Van Hai N, Stoneking M (2020). Extensive ethnolinguistic diversity in Vietnam reflects multiple sources of genetic diversity. Molecular Biology and Evolution.
https://doi.org/10.1093/molbev/msaa099

[5] McColl H, Racimo F, Vinner L, Demeter F, Gakuhari T, Moreno-Mayar JV, Van Driem G, Wilken UG, Seguin-Orlando A, De la Fuente Castro C, Wasef S (2018). The prehistoric peopling of Southeast Asia. Science. 361(6397):88-92.
https://science.sciencemag.org/content/361/6397/88

[6] Chu JY, et al (1998), Genetic relationship of populations in China, Proceedings of National Academy of Sciences USA, 95(20): 11763-11768

[7] The HUGO Pan-Asian SNP Consortium (2009), Mapping human genetic diversity in Asia, Science, 326(5959): 1541-1545

[8] Hua Zhong, Hong Shi, Xue-Bin Qi, et al. (2010). Extended Y chromosome investigation suggests postglacial migrations of modern humans into East Asia via the northern route. Molecular biology and evolution;28(1):717-27.

[9] Chuan‐Chao WANG Shi YAN Zhen‐Dong QIN Yan LU Qi‐Liang DING Lan‐Hai WEI Shi‐Lin LI Ya‐Jun YANG Li JIN Hui LI, et al. (2013). Late Neolithic expansion of ancient Chinese revealed by Y chromosome haplogroup O3a1c‐002611.
https://onlinelibrary.wiley.com/doi/full/10.1111/j.1759-6831.2012.00244.x

[10] Matsumura, Hirofumi. (2011). Quantitative Cranio-Morphology at Man Bac. 10.22459/TA33.05.2011.03.

[11] Zi-Yang Xia, Shi Yan, Chuan-Chao Wang, Hong-Xiang Zheng, et al. (2019) Inland-coastal bifurcation of southern East Asians revealed by Hmong-Mien genomic history

[12] Matsumura H, Hung HC, Higham C, Zhang C, Yamagata M, Nguyen LC, Li Z, Fan XC, Simanjuntak T, Oktaviana AA, He JN. Craniometrics reveal “two layers” of prehistoric human dispersal in eastern Eurasia (2019). Scientific reports. 9(1):1-2.  https://www.researchgate.net/publication/330875335_Craniometrics_Reveal_Two_Layers_of_Prehistoric_Human_Dispersal_in_Eastern_Eurasia

[13] Rispoli, Fiorella. (2007). The Incised & Impressed Pottery Style of Mainland Southeast Asia: Following the Paths of Neolithization. East and West. 57. 235-304. 10.2307/29757730.

[14] Hà Hữu Nga, Văn hóa Bắc Sơn, Nhà xuất bản Khoa học Xã hội, 2001.

[15] Báo Chính Phủ, Phát hiện dấu tích người tiền sử ở Ba Bể
http://baochinhphu.vn/Van-hoa/Phat-hien-dau-tich-nguoi-tien-su-o-Ba-Be/368654.vgp

[16] Hoàng Huy, Di chỉ khảo cổ học Mai Pha đang bị lãng quên
https://baolangson.vn/xa-hoi/34762-di-chi-khao-co-hoc-mai-pha-dang-bi-lang-quen.html

Bình luận về bài viết này

Trang web này sử dụng Akismet để lọc thư rác. Tìm hiểu cách xử lý bình luận của bạn.