565. ☀ Lịch sử hình thành và tan rã của cộng đồng tộc Việt

Bức tranh lịch sử về nguồn gốc của cộng đồng tộc Việt trong khoảng hơn hai nghìn năm gần đây bị phủ đầy bởi những lớp bụi dày của lịch sử, những hiểu biết chính xác về cộng đồng này trong lịch sử hầu như là rất ít ỏi, những biến động liên tục của dòng lịch sử và những ghi chép thiếu sự thống nhất của người Trung Hoa, đã khiến cho lịch sử về cộng đồng tộc Việt tồn tại nhiều điểm mâu thuẫn và rắc rối, việc xác định nguồn gốc của cộng đồng này càng trở nên khó khăn và phức tạp hơn.

Trong tiến trình hình thành và phát triển, cộng đồng tộc Việt sinh sống trong một cộng đồng chung trong thời gian rất dài, nhưng dưới những bước chân xâm lược từ sức mạnh quân sự của người Hoa Hạ, tộc Việt đã dần dần tan rã, khi quốc gia chung sụp đổ, cũng là lúc họ gần như biến mất trong tiến trình lịch sử của văn hóa Á Đông, phân tách thành vô số những dân tộc, mà ngày nay vẫn còn sinh sống trong địa bàn của tộc Việt cũ. Trong quá trình dài sống dưới ách đô hộ của người Hoa Hạ, chỉ có người Việt tại Việt Nam là giành lại được độc lập cho dân tộc, lập nên một nhà nước độc lập, kế thừa và phục hưng ý thức Việt trong quốc hiệu và tộc danh của mình. Người Việt tại nam Đông Á thì không gặp may mắn như vậy, họ đã phải đương đầu với những sách lược đồng hóa bài bản và thâm sâu của người Hoa Hạ, qua thời gian lâu dài cai trị, di dân và đồng hóa, hầu hết các nhóm dân cư tộc Việt sống ở các vùng đồng bằng đều đã bị đồng hóa thành người Hán. Sự phân tách này, một bên có được độc lập, một bên bị đồng hóa, cùng những hành động với chủ đích xóa nhòa lịch sử về sự thống nhất và liên hệ trong các vùng tộc Việt của người Hoa Hạ, đã khiến lịch sử về cộng đồng tộc Việt đã không rõ ràng lại càng thêm rắc rối.

Bởi tiến trình lịch sử phức tạp như vậy, nên nguồn gốc của cộng đồng tộc Việt gần như rơi hoàn toàn vào sự quên lãng trong cả giới học thuật và bình dân, các dân tộc có nguồn gốc tộc Việt cũng gần như không còn ý thức rõ ràng về nguồn gốc tộc Việt của dân tộc mình. Các nghiên cứu quốc tế thường rất chú trọng tới việc nghiên cứu về văn minh Trung Hoa, nhưng khi bàn về những nền văn minh đã bị người Hoa Hạ hấp thụ, họ thường ghi chép rất sơ lược về tộc Việt, hoặc đơn giản là không sự quan tâm tới cộng đồng này, rất hiếm có nhà nghiên cứu nào tìm hiểu, khảo cứu, nhận định một cách bài bản và khách quan về cộng đồng tộc Việt giống như cách họ thực hiện với văn minh Trung Hoa. Bởi vậy, nguồn gốc của tộc Việt gần như là một khoảng trống to lớn trong lịch sử của vùng Á Đông.

Vấn đề này có một phần lớn nguyên nhân từ hệ tư tưởng Hoa Di, khi người Hoa Hạ áp đặt khái niệm man di vào tộc Việt, cho rằng tộc Việt là tộc người không văn minh, được thể hiện trực tiếp trong các ghi chép lịch sử của họ. Bên cạnh đó, thì sự hiểu nhầm còn tới từ khái niệm “Bách Việt” mà người Hoa Hạ đã tạo ra vào thời nhà Tần, họ đã ghép từ “Bách” với tên “Việt” tự nhận của tộc Việt nhằm mục đích gây hiểu nhầm trong nhận định về cộng đồng tộc Việt. Nhiều người từ đây đã cho rằng, “Việt” chỉ là khái niệm chỉ chung các dân tộc không liên quan tới nhau trong vùng phía Nam đất Hán, là “100 tộc Việt”, là các tộc người không chưa được khai hóa, không có văn minh, đang còn trong trạng thái dã man, nguyên thủy. Những lớp bụi nhân tạo này là những nguyên nhân trực tiếp khiến lịch sử của tộc Việt chìm trong bóng tối.

Những hiểu lầm như vậy đã tồn tại và có sức ảnh hưởng rộng lớn trong một thời gian rất dài, khiến người Việt và các dân tộc anh em không nhận diện được chính xác về nguồn gốc của dân tộc mình, không nhận ra những sự thật lịch sử về cộng đồng tộc Việt, không thực sự biết dân tộc mình từ đâu tới, xây dựng nên những di sản nào, hay với riêng người Việt, thì là vị trí và vai trò của họ trong cộng đồng tộc Việt là như thế nào. Sự khiếm khuyết lớn trong nhận thức lịch sử tộc Việt, đã khiến không ít người Việt hoài nghi, thậm chí là phủ nhận về sự liên hệ với tộc Việt, cho rằng người Việt ngày nay không liên quan gì tới họ, mặc dù trong thực tế, người Việt ngày nay chính là dân tộc và đất nước độc lập duy nhất còn giữ được tên Việt của tộc Việt, và còn sử dụng nó trong tên chính thức của quốc gia trong xuyên suốt lịch sử tồn tại cho tới tận ngày nay. Những lớp bụi được tạo ra có chủ đích đó cũng khiến người Việt dễ dàng tin tưởng vào những giả thuyết không chính xác về nguồn gốc dân tộc.

Nhưng dưới ánh sáng của kỷ nguyên khoa học hiện đại, chúng ta ngày càng thấy được rõ ràng hơn về nguồn gốc của tộc Việt, xác định được rõ ràng về tiến trình hình thành và phát triển của cộng đồng này. Với những nghiên cứu di truyền và khảo cổ đã được công bố, chúng ta cũng đã có đủ chất liệu để phác họa nên một bức tranh rất cơ bản về nguồn gốc tộc Việt, các nghiên cứu di truyền cung cấp những thông tin quan trọng về các dòng di cư, từ đó làm cơ sở để tìm hiểu về nguồn gốc và tiến trình phát triển của các nền văn hóa. Đây là những bằng chứng không thể chối cãi, trực tiếp chứng minh và khẳng định về vấn đề nguồn gốc của người Việt và tộc Việt. Các nghiên cứu di truyền cũng đã giải đáp một cách khá vẹn toàn những khúc mắc mà cổ sử Trung Hoa, hay kể cả những giả thuyết dựa trên ngôn ngữ, nhân chủng đã tạo nên trong các giai đoạn trước đây.

Về cơ bản, theo kết quả các nghiên cứu, thì người Việt và tộc Việt có nguồn gốc từ tiến trình phát triển liên tục trong hàng chục nghìn năm trong vùng Đông Nam Á và Đông Á, hoàn toàn không có sự tác động và chi phối về gen hay văn hóa của tộc người Hoa Hạ. Trong tiến trình phát triển đó, tộc Việt đã hình thành ý thức dân tộc và nhà nước từ sớm với văn hóa Lương Chử, phát triển trong một cộng đồng chung trong khoảng 3000 năm, với các nhà nước nối tiếp nhau. 3000 năm phát triển, là một giai đoạn dài của những biến động lịch sử, cộng đồng tộc Việt trong quá trình tồn tại, dần phân mảnh và tan rã dưới những áp lực của người Hoa Hạ dồn xuống phương Nam, họ vẫn tiếp tục chung sống, hòa huyết trong một cộng đồng chung, dưới một quốc gia chung trong một thời gian dài, với lãnh thổ thu hẹp dần qua thời gian, trước khi chính thức tan rã vào thời nhà Hán.

Việc khảo cứu về các tài liệu lịch sử, cũng sẽ mở rộng hơn không gian và thời gian trong quá trình hình thành và phát triển của cộng đồng tộc Việt, từ đó, cho chúng ta thấy những mảnh ghép trọn vẹn hơn về lịch sử của tộc Việt. Đó sẽ là phương hướng mà chúng tôi sẽ hướng tới trong bài viết này, như một sự mở rộng thêm các nghiên cứu khoa học đã được chúng tôi thực hiện, nhằm làm hoàn thiện hơn bức tranh về nguồn gốc của cộng đồng tộc Việt. Từ đây, đem lại những hiểu biết mới, những nhận thức mới khách quan và khoa học hơn về nguồn gốc của tộc Việt, giúp người Việt và các dân tộc anh em có thể nhận thức lại được giá trị về nguồn gốc của dân tộc mình, trân trọng hơn cội nguồn và ý thức Việt, cũng từ đó góp phần giải tỏa những giả thuyết không chính xác về tộc Việt đã từng có những ảnh hưởng rất sâu rộng trong tâm thức của người Việt và các dân tộc anh em.

I. NGUỒN GỐC TỘC VIỆT VÀ CƠ SỞ TIẾP CẬN CỔ SỬ TRUNG HOA:

Công việc đầu tiên cần thực hiện, đó là xác định về nguồn gốc cộng đồng tộc Việt và cơ sở tiếp cận và nghiên cứu về cổ sử Trung Hoa, thiết lập một phương pháp cơ bản để từ đó chúng tôi có thể tiến hành thực hiện một công trình khảo cứu toàn diện, hướng tới tinh thần khách quan và khoa học nhất khi nhận định về lịch sử của cộng đồng tộc Việt.

1. Nguồn gốc cộng đồng tộc Việt:

Các nghiên cứu di truyền, khảo cổ đã cho thấy cơ bản về nguồn gốc của cộng đồng tộc Việt [1][2][3], họ có nguồn gốc chính từ cư dân cổ Đông Nam Á (người Hòa Bình có làn da đen) di cư lên phía Bắc vào khoảng 12.000 năm trước, dừng chân trong vùng Dương Tử và lên cả vùng bắc Đông Á. Cư dân cổ gốc Đông Nam Á đã di cư lên theo hai nhánh và hai thời điểm: cư dân tiền thân của ngữ hệ Nam Á di cư lên trước và định cư ở vùng Dương Tử, cư dân tiền thân của ngữ hệ Nam Đảo, Tai-Kadai di cư vào thời điểm khác với dòng di cư của cư dân Dương Tử, họ đã lên phía Bắc và định cư chủ yếu ở vùng Sơn Đông. Đây là hai thành phần dân cư chính hình thành nên tộc Việt trong vùng Dương Tử. Nghiên cứu di truyền nhiễm sắc thể Y truyền theo dòng cha đã cho chúng ta thấy được hai dòng di cư lên phía Bắc này từ Đông Nam Á. [4]

Sự di cư của cư dân cổ mang haplogroup O của nhiễm sắc thể Y ở Đông Á. Các đường đứt đoạn đại diện cho các tuyến đường di chuyển thay thế. [4]

Khi cư dân cổ Đông Nam Á di cư lên, họ đã gặp người Bắc Á với dấu tích tại hang Devil’s Gate trong vùng Siberia tại Nga (đây không phải người Hoa Hạ) di cư xuống từ trước đó, họ cũng có nguồn gốc từ châu Phi, nhưng đã sớm chuyển hoá sang chủng người có làn da trắng, cư dân hai vùng bắc Đông Á và nam Đông Á đã có sự di cư và hòa huyết với nhau, với sự di cư theo hai chiều Bắc Nam của cư dân hai vùng. Sự hòa huyết với các cư dân Bắc Á đã thay đổi di truyền, nhân chủng và diện mạo của cư dân vùng Dương Tử và cư dân tại vùng Sơn Đông, làn da họ dần dần trở nên sáng hơn, họ cũng đã hình thành nên một chủng mới tại các vùng này thông qua sự hoà huyết hai chiều. [1] Sự hòa huyết của hai nhóm dân cư đã diễn ra cả trong vùng Dương Tử và Hoàng Hà, với cơ cấu Đông Nam Á nhiều hơn ở vùng Dương Tử, Sơn Đông và thành phần Bắc Á nhiều hơn ở phía Bắc trong các văn hóa Ngưỡng Thiều và Hồng Sơn. Cư dân Dương Tử đã có những cuộc di cư lên vùng đồng bằng sông Hoàng Hà, họ cũng đã di cư lên cả vùng đồng bằng sông Liêu, hình thành văn hóa Hồng Sơn, nghiên cứu di truyền cho thấy cư dân Tây Liêu cổ đại có khoảng 33% gen là từ vùng Dương Tử. [5]

Sau đó, khoảng 6000 năm trước, người Nam Đảo – Tai-Kadai đã di cư về vùng Dương Tử theo các nghiên cứu di truyền [6][7], hợp nhất với người Nam Á bản địa để hình thành cộng đồng tộc Việt. Tại vùng Dương Tử, thì cộng đồng tộc Việt đã hình thành nhà nước và ý thức dân tộc Việt tại văn hóa Lương Chử, sau đó được kế thừa tại văn hóa Thạch Gia Hà. Sau cuộc di cư này, cư dân tộc Việt về cơ bản chỉ sinh sống trong vùng Dương Tử trở về Việt Nam, nhưng bên cạnh đó, họ còn có thể sinh sống cả trong vùng Giang Tô.

Văn hóa Lương Chử đã được các nhà khảo cổ chứng minh có tổ chức nhà nước sớm nhất trong vùng Đông Á [8][9], với niên đại khoảng 5300 năm trước, tại văn hóa Thạch Gia Hà, thì văn hóa Thạch Gia Hà có thể được coi như một nhà nước cổ đại với tổ chức xã hội tương đối tiên tiến của nó [10][11][12]. Các học giả Trung Quốc cho rằng các văn hóa trong vùng Dương Tử như Thạch Gia Hà hay trước đó là Lương Chử phức tạp hơn về mặt xã hội và phát triển hơn so với các văn hóa cùng thời ở vùng bắc Đông Á. [11]

Tên gọi Việt, ý thức dân tộc và quốc gia của người Việt cũng đã hình thành trong văn hóa Lương Chử. Tên Việt được hình thành từ hình ảnh chiếc rìu, có nguồn gốc đại diện cho tộc người sử dụng rìu lễ khí, và nghĩa bóng là vượt qua như nghĩa mà chúng ta ngày nay vẫn sử dụng.

Trên một chiếc bình gốm của văn hóa Lương Chử, các nhà nghiên cứu đã tìm thấy 4 ký hiệu khắc trên thân của chiếc bình, tạo thành một câu hoàn chỉnh, thể hiện rõ ý thức về nguồn gốc và tổ chức quốc gia của cộng đồng tộc Việt. Nhà nghiên cứu Trung Quốc, Đổng Sở Bình đã giải mã ý nghĩa các chữ này dựa trên sự so sánh về văn tự, tìm hiểu về bối cảnh lịch sử, nguồn gốc dân tộc của văn hóa Lương Chử, so sánh với các cách giải mã đã có trước đó của các học giả, ông đã giải mã các chữ này là “方钺会矢” – “Phương Việt hội thi”, có thể hiểu là “Liên minh quốc gia Việt” [13], các chữ này được viết và đọc theo thứ tự từ trái qua phải, theo như cách viết truyền thống của người Việt. Chữ Việt hình chiếc rìu cũng chính là chữ Việt sau đó được Giáp Cốt văn đời nhà Thương chép lại. [14]

4 biểu tượng trên nồi gốm văn hóa Lương Chử được giải mã cho thấy ý thức Việt đã xuất hiện từ thời văn hóa Lương Chử. [13]

Hình ảnh thực tế chiếc bình gốm có khắc chữ của văn hóa Lương Chử. [Nguồn: CSSToday, dẫn]

Tên gọi Việt bắt nguồn từ hình ảnh chiếc rìu của văn hóa Lương Chử, tới thời kỳ văn hóa Thạch Gia Hà tại vùng trung lưu Dương Tử, đã phát triển lên thành hình ảnh thủ lĩnh đội mũ lông chim cầm rìu, đây là đại diện cho ý thức Việt trong văn hóa Thạch Gia Hà.

Hình ảnh thủ lĩnh cầm rìu trên chum gốm văn hóa Thạch Gia Hà. [15]

Hình ảnh thủ lĩnh cầm rìu biểu trưng cho tên gọi Việt trong văn hóa Thạch Gia Hà tiếp tục được người Việt kế thừa trong văn hóa Đông Sơn, với hình ảnh thủ lĩnh cầm rìu xuất hiện rất phổ biến trên các trống đồng Đông Sơn.

Hình ảnh thủ lĩnh cầm rìu và đội mũ lông chim tương tự như văn hóa Thạch Gia Hà xuất hiện rất phổ biến trên các trống đồng Đông Sơn. Hoa văn trên là ở trống đồng Ngọc Lũ. [16]

Cộng đồng tộc Việt hình thành nhà nước và ý thức dân tộc tại văn hóa Lương Chử theo các bằng chứng khảo cổ, thời điểm hình thành, thì cộng đồng tộc Việt là một cộng đồng của các nhóm dân cư có nguồn gốc khác nhau, cả về ngôn ngữ lẫn di truyền. Theo các nghiên cứu ngôn ngữ học, thì cộng đồng tộc Việt khi thành bao gồm các hệ ngữ: Nam Á, Tai-Kadai và có thể là cả Nam Đảo, Hmong-Mien. [17][18][19]. Tuy nhiên thì người Nam Đảo sau đó lại tiếp tục di cư sang vùng đảo Đài Loan và xuống Đông Nam Á [6][7], nên họ chỉ sinh sống trong cộng đồng tộc Việt trong một thời gian rất ngắn, hai hệ ngữ chính của cộng đồng tộc Việt xuyên suốt lịch sử là ngữ hệ Nam Á và Tai-Kadai, bên cạnh đó có thể có cả dân tộc Dao thuộc hệ ngữ Hmong-Mien cũng thuộc cộng đồng tộc Việt. [1]

Từ tiến trình phát triển này, chúng ta thấy được cộng đồng tộc Việt hoàn toàn không thuộc sở hữu của người Trung Hoa “từ thời cổ đại” như họ vẫn thường cố gắng tuyên truyền. Trung Quốc đã lợi dụng bối cảnh đất đai và một phần lớn các cư dân tộc Việt trong vùng nam Đông Á đã bị họ chiếm đóng, đồng hóa và “hòa tan” vào Trung Hoa, để từ đó xem người Việt như “đứa con hoang”, khuyên người Việt “lãng tử hồi đầu”, chúng tôi đã chứng minh và tìm hiểu về sự thực, phản biện lại luận điệu xuyên tạc của người Trung Quốc [20], tất cả các bằng chứng đều chứng minh ngược lại những gì người Trung Quốc cố gắng tuyên truyền, kể cả cổ sử Trung Hoa, các ghi chép của họ cũng cho thấy rõ được nguồn gốc biệt lập của cộng đồng tộc Việt và người Hoa Hạ từ thời điểm hình thành tới khi tan rã.

Bởi vậy, việc cho rằng Bách Việt là của Trung Quốc, người Việt nhận gốc Bách Việt là đang phục vụ cho mưu đồ của Trung Quốc, là chúng ta đã mắc vào cái bẫy mà họ đã giăng sẵn. Bách Việt trong xuyên suốt thời gian tồn tại, không phải của Trung Quốc, đó là chân lý của lịch sử, họ có chung một nguồn gốc và có sự gắn bó chặt chẽ hơn với người Việt tại miền Bắc Việt Nam trong một cộng đồng chung. Một khảo cứu toàn diện về lịch sử của cộng đồng tộc Việt được chúng tôi thực hiện ở các phần sau đây sẽ giúp bạn đọc có cái nhìn toàn cảnh hơn về lịch sử và nguồn gốc của cộng đồng tộc Việt.

2. Cơ sở tiếp cận và nghiên cứu về cổ sử Trung Hoa:

Về cổ sử Trung Hoa, nhìn chung thì người Việt thường có cái nhìn không thiện cảm, bởi tuy người Trung Hoa có ghi chép rất nhiều về cộng đồng tộc Việt, nhưng trong không ít các tài liệu của họ, họ thường xem người Việt là man di, đóng đinh khái niệm đó cho người Việt mỗi khi nhắc về tộc Việt, đồng thời, họ cũng có những ghi chép xuyên tạc, bịa đặt về cộng đồng tộc Việt, mô tả người Việt như một tộc người nguyên thủy, man rợ, không có văn minh, trong khi thực tế thì ngược lại, người Việt có văn minh nhà nước trước họ cả nghìn năm, và chính họ đã tiếp nhận những ảnh hưởng của các văn hóa tộc Việt [21] và biến thành của mình không ít di sản và thành tựu văn hóa của người Việt, có thể ví dụ như 12 con giáp [22][23], thế nhưng họ không hề nhắc tới việc vay mượn của mình, ngược lại còn cố tình xóa dấu vết, và ghi chép hạ thấp người Việt nhằm mục đích không tốt.

Tuy chủ quan trong nhận định về trình độ văn minh của cộng đồng tộc Việt là như vậy, nhưng về cơ bản, các tài liệu cổ sử Trung Hoa là những tài liệu tham khảo tốt nhất, và cũng là duy nhất để chúng ta có thể tìm hiểu về nguồn gốc của cộng đồng tộc Việt, các nhà nghiên cứu phương Tây cũng xem cổ sử Trung Hoa như một nguồn tư liệu tham khảo và nghiên cứu quan trọng, làm cơ sở cho các nghiên cứu đa ngành của họ. Các sách sử Trung Hoa có phương pháp khá khoa học trong việc ghi chép, với sự khảo cứu kỹ lưỡng và toàn diện, sách sau thường có sự tham khảo từ các sách chép trước. Vậy nên, đây vừa là nguồn tư liệu duy nhất, vừa là nguồn tư liệu có độ tin cậy tốt nhất để chúng ta có thể tham khảo và tìm hiểu về nguồn gốc của cộng đồng tộc Việt.

Vậy những ghi chép nào được xem là đáng tin và không đáng tin? Những ghi chép mang chủ quan cá nhân, ảnh hưởng của tư tưởng Hoa Di như khi nhận định về văn minh của cộng đồng tộc Việt, là những ghi chép không đáng tin cậy, những ghi chép còn lại, có tính chất thuần lịch sử, có thái độ khách quan và tôn trọng sự thật, là những ghi chép có thể tham khảo được. Tuy nhiên, cũng không phải tất cả đều có giá trị tham khảo, vì vậy nên chúng ta cần phải đối chiếu nhiều tài liệu để có thể tìm ra các mảnh ghép chính xác nhất, từ đó có thể phác họa nên một bức tranh toàn diện về lịch sử của cộng đồng tộc Việt.

II. ĐỊA BÀN PHÂN BỐ VÀ QUỐC GIA CHUNG CỦA CỘNG ĐỒNG TỘC VIỆT:

Từ các nghiên cứu di truyền, chúng ta đã thấy được bức tranh cơ bản về nguồn gốc của cộng đồng tộc Việt, cộng đồng này là sự kết hợp của hai thành phần dân cư có nguồn gốc từ Đông Nam Á di cư lên khoảng 12.000 năm trước, văn hóa Lương Chử là văn hóa đánh dấu sự hình thành của cộng đồng tộc Việt, với nhà nước và ý thức dân tộc đã hình thành tại đây.

Các văn hóa Lương Chử [8][9], Thạch Gia Hà [10][11][12] cũng được các nghiên cứu khảo cổ chứng minh về sự tồn tại của những tổ chức nhà nước phát triển, đây là cơ sở rất quan trọng chứng minh cho chúng ta thấy cộng đồng tộc Việt đã có sự thống nhất dưới những nhà nước chung, phát triển các nền văn hóa với trình độ văn minh cao, chứ không phải những tộc người dã man, không có văn minh như những gì cổ sử Trung Hoa đã mô tả về tộc Việt.

Các nhà nước của cộng đồng tộc Việt thời kỳ này cũng tương ứng với nước Xích Quỷ của Kinh Dương Vương và Lạc Long Quân trong truyện họ Hồng Bàng được chép trong cả chính sử Đại Việt sử ký toàn thư và cả sách Lĩnh Nam chích quái. Cả hai vị vua này đều làm chủ cả hai vùng châu Kinh và châu Dương, tức vùng trung lưu Dương Tử và hạ lưu Dương Tử, nơi có hai văn hóa Lương Chử và Thạch Gia Hà.

Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Nhâm Tuất, năm thứ 17. Xưa cháu ba đời của Viêm Đế họ Thần Nông là Đế Minh sinh ra Đế Nghi, sau Đế Minh nhân đi tuần phương Nam, đến Ngũ Lĩnh lấy con gái Vụ Tiên, sinh ra vua [Kinh Dương Vương]. Vua là bậc thánh trí thông minh, Đế Minh rất yêu quý, muốn cho nối ngôi. Vua cố nhường cho anh, không dám vâng mệnh. Đế Minh mới lập Đế Nghi là con nối ngôi, cai quản phương Bắc, phong cho vua làm Kinh Dương Vương, cai quản phương Nam, gọi là nước Xích Quỷ. Vua lấy con gái Động Đình Quân tên là Thần Long sinh ra Lạc Long Quân, tên húy là Sùng Lãm, con của Kinh Dương Vương. Vua lấy con gái của Đế Lai là Âu Cơ, sinh ra trăm con trai (tục truyền sinh trăm trứng), là tổ của Bách Việt.” [24]

Truyện họ Hồng Bàng chép: “Cháu ba đời Viêm Đế họ Thần Nông tên là Đế Minh, sinh ra Đế Nghi, rồi đi nam tuần đến Ngũ Lĩnh, gặp được nàng con gái Vụ Tiên đem lòng yêu mến mới cưới đem về, sinh ra Lộc Tục, dung mạo đoan chính, thông minh túc thành; Đế Minh lấy làm lạ, cho nối ngôi vua; Lộc Tục cố nhường cho anh. Đế Minh lập Đế Nghi làm tự quân cai trị phương Bắc, phong Lộc Tục làm Kinh Dương Vương cai trị phương Nam, đặt quốc hiệu là Xích Quỷ Quốc. Kinh Dương Vương xuống thủy phủ, cưới con gái vua Động Đình là Long Nữ, sinh ra Sùng Lãm tức là Lạc Long Quân; Lạc Long Quân thay cha để trị nước, còn Kinh Dương Vương thì không biết đi đâu.” [25]

Sự thống nhất dưới một quốc gia là cơ sở quan trọng để thấy được sự kế thừa nhà nước của tộc Việt trong các giai đoạn sau, sự thống nhất đã có từ trước đó tiếp tục được tộc Việt kế thừa, hình thành bộ gen thống nhất, cũng như cùng có chung một nền văn hóa cuối cùng thời kỳ đồ đồng là văn hóa Đông Sơn. Các ghi chép lịch sử của người Trung Hoa và Việt Nam cũng xác định cơ bản về quốc gia chung của cộng đồng tộc Việt sau giai đoạn 4000 năm, khi văn minh Dương Tử sụp đổ.

Quốc gia của tộc Việt trong cổ sử Trung Hoa được chép lần đầu tiên dưới khái niệm Giao Chỉ, sau đó, thì quốc gia chung của tộc Việt cũng tiếp tục được chép trong sách Thông Điển của Đỗ Hữu đời Đường.

Hoài Nam Tử của Lưu An viết vào thời nhà Hán, trong thiên Tu vụ huấn viết: “Vua Nghiêu lên làm vua, hiếu từ nhân ái, khiến dân như con em, phương Tây dạy mán ốc dân, phương Đông đến mán Hắc xỉ, phương Bắc vỗ về đất U Đô, phương Nam thông nước Giao Chỉ. [26]

Lã Thị Xuân Thu do Lã Bất Vi soạn thời nhà Tần, trong thiên Thận hành luận, chép về lãnh thổ vua Vũ thời nhà Hạ: “南至交阯孫樸續樠之國丹粟漆樹沸水漂漂九陽之山羽人裸民之處” – “Phía nam đến các nước Giao Chỉ, Tôn Bốc, Tục Man, các núi Đan Túc, Tất Thụ, Phất Thủy, Phiêu Phiêu, Cửu Dương, các xứ Vũ Nhân, Khỏa Dân, hương Bất Tử.”  [A]

Quốc gia của cộng đồng tộc Việt tương ứng với khái niệm “Giao”, được sử dụng để chỉ chung các vùng đất thuộc lãnh thổ từng thời kỳ của tộc Việt, bắt đầu từ thời nhà Hạ tới tận thời phong kiến. Giao Chỉ ở đây ở phía Nam của nhà Hạ, bởi vậy, lãnh thổ của tộc Việt thời kỳ này là trong Dương Tử. Quốc gia của cộng đồng tộc Việt sau giai đoạn này được ghi chép tương ứng với địa bàn của cộng đồng tộc Việt sinh sống, là từ vùng Dương Tử về phía Nam.

Sách Thông Điển của Đỗ Hữu 杜佑 thời Đường (801), phần Châu quận chép: “自嶺而南,當唐、虞、三代為蠻夷之國,是百越之地” – “Từ dải núi Ngũ Lĩnh về phía nam, vào thời Đường – Ngu, Tam đại là nước của người Man Di, là đất của người Bách Việt .”. Sách này chú thêm: “或曰自交趾至於會稽七八千里,百越雜處,各有種姓.” – “Từ Giao Chỉ đến Cối Kê, bảy tám ngàn dặm, người Bách Việt xuất hiện khắp mọi nơi, mỗi nơi đều có một chủng tính.”

Như vậy, thì vùng nam Dương Tử là đất của tộc Việt (người Bách Việt), họ đã có một quốc gia chung đương thời với Đường – Ngu, Tam Đại (Hạ – Thương – Chu) của người Hoa Hạ. Chi tiết “vào thời Đường – Ngu” cho thấy thời điểm được nhắc tới trong ghi chép này là khoảng 4300 năm trước, tương ứng với văn hóa Thạch Gia Hà, thời điểm này thì cộng đồng tộc Việt chưa di cư về phía Nam, nên lãnh thổ của quốc gia tộc Việt bao gồm vùng Dương Tử, tới sau thời điểm 4000 năm, diễn ra hạn hán [27] trong vùng Dương Tử đã thúc đẩy tộc Việt di cư về Lĩnh Nam, Việt Nam và Đông Nam Á [28][29], trong đó tầng lớp tinh hoa đã trở về Việt Nam, thì lãnh thổ mới kéo dài theo dòng di cư của người Việt. Sau khi diễn ra cuộc di cư vào khoảng 4000 năm trước, cộng đồng tộc Việt tiếp tục phát triển trong một cộng đồng chung, một quốc gia chung, với lãnh thổ kéo dài hơn, từ vùng Dương Tử trở về Việt Nam, đây cũng chính là vùng sinh sống của các cư dân tộc Việt.

Trong sách Hán thư, Địa lý chí, cũng chép về địa bàn sinh sống của cộng đồng tộc Việt từ vùng Ngũ Lĩnh về Nam, nhưng địa bàn của tộc Việt rộng hơn thế, như Thần Toản đã chú thích là “từ Giao Chỉ đến quận Cối Kê”, tương đồng với ghi chép trong sách Thông Điển của Đỗ Hữu.

Sách Hán thư, Địa lý chí chép: “粵地牽牛、婺女之分壄也。今之蒼梧、鬱林、合浦、交阯、九真、南海、日南皆粵分也。其君禹後帝少康之庶子云封於會稽臣瓚曰「自交阯至會稽七八千里百越雜處各有種姓不得盡云少康之後也。” – “Đất Việt ở phân dã của chòm sao Khiên Ngưu, Vụ Nữ. Các quận Thương Ngô, Uất Lâm, Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu Chân, Nam Hải, Nhật Nam ngày nay đều là phân dã của đất Việt. Có quân trưởng của đất ấy là dòng dõi của vua Vũ, đấy là con thứ của vua Thiếu Khang được phong ở núi Cối Kê, Thần Toản nói: “Từ quận Giao Chỉ đến quận Cối Kê dài bảy, tám ngàn dặm có các nhóm người Bách Việt ở lẫn, đều có nhánh họ, không nên nói đều là dòng dõi của vua Thiếu Khang.” [B]

Đây là các ghi chép sớm nhất trong cổ sử Trung Hoa, chúng đã trực tiếp chứng minh người Việt có nhà nước từ thời Đường – Ngu, tức là khoảng 4300 năm trước, tương ứng với với văn hóa Thạch Gia Hà, văn hóa đã được chứng minh theo các nghiên cứu khảo cổ học là có tổ chức nhà nước phát triển [10][11][12], như vậy thì những ghi chép của người Trung Hoa là chính xác, tiếp theo, thì Thông Điển của Đỗ Hữu cũng nhắc tới cả Tam Đại, tức bao gồm cả các triều Thương – Chu, thì người Việt cũng có một quốc gia đương thời với các triều đại Hoa Hạ.

Từ những ghi chép của Trung Hoa, chúng ta đã thấy được tộc Việt có một nhà nước chung tương ứng với địa bàn sinh sống của cộng đồng này, nó cũng bao gồm cả vùng miền Bắc và miền Trung Việt Nam. Xét theo chiều ngược lại, thì những ghi chép của người Việt cũng cho thấy tộc Việt đã có một quốc gia chung từ Việt Nam tới hồ Động Đình (Dương Tử), chính là quốc gia Văn Lang của các vị vua Hùng.

Trong các tài liệu lịch sử của Trung Quốc, cũng chép rất rõ về Hùng Vương và đất Giao Chỉ, cho thấy Hùng Vương là những người làm chủ đất Giao Chỉ, là khái niệm tương ứng với sự biến động lãnh thổ từng thời kỳ của quốc gia Văn Lang, các tài liệu cũng không ghi rõ là “Giao Chỉ quận”, vì vậy nên đây là khái niệm Giao Chỉ chỉ một vùng đất rộng lớn. Vì vậy, ghi chép của cả hai chiều từ người Việt và người Hoa Hạ đều đồng nhất với nhau rằng cộng đồng tộc Việt có một quốc gia chung, đó chính là quốc gia Văn Lang của các vị vua Hùng.

Cựu Đường thư, (Hậu Tấn – Lưu Hú soạn, 945 SCN), quyển 41, Chí 21, Địa lí 4, dẫn Nam Việt chí (Lưu Tống 420 – 479) chép: “交趾之地,最為膏腴。舊有君長曰雄王,其佐曰雄侯。後蜀王將兵三萬討雄王,滅之。蜀以其子為安陽王,治交趾。其國地,在今平道縣東。其城九重,周九里,士庶蕃阜。尉佗在番禺,遣兵攻之。王有神弩,一發殺越軍萬人,趙佗乃與之和,仍以其子始為質。安陽王以媚珠妻之,子始得弩毀之。越兵至,乃殺安陽王,兼其地。” – “Đất Giao Chỉ rất là màu mỡ, ngày xưa có quân trưởng gọi là Hùng Vương, phụ tá là Hùng Hầu. Sau có vua Thục đem ba vạn lính đánh diệt Hùng Vương đi. Vua Thục nhân đó cho con mình làm An Dương Vương, trị đất Giao Chỉ. Đất nước ấy ở phía đông huyện Bình Đạo ngày nay. Thành nước ấy có chín vòng, chu vi chín dặm, dân chúng đông đúc. Úy Đà đóng đô ở thành Phiên Ngung phát binh sang đánh. Vương có nỏ thần bắn một phát giết một vạn quân Việt. Triệu Đà bèn hòa với vương, rồi sai con mình tên là Thủy làm con tin. An Dương Vương đem con gái tên là Mị Châu gả cho Thủy, Thủy thấy được nỏ thần bèn hủy đi. Kịp khi quân Việt đến liền giết An Dương Vương, chiếm cả nước ấy.” [30]

Sách Thái Bình quảng ký, thời Tống, dẫn Nam Việt chí (Lưu Tống, 420 – 479) khoảng thế kỷ V cũng có chép về các vị vua Hùng: ““交趾之地,頗為膏腴,從民居之,始知播植。厥土惟黑壤。厥氣惟雄。故今稱其田為雄田,其民為雄民。有君長,亦曰雄王;有輔佐焉,亦曰雄侯。分其地以為雄將。” – “Đất Giao Chỉ vốn màu mỡ, di dân tới sống ở đó, (dân) mới bắt đầu biết gieo trồng, đất vùng ấy đen xốp, khí đất hùng mạnh, cho nên gọi ruộng ấy là Hùng Điền, dân vùng ấy gọi là Hùng Dân. Quân trưởng gọi là Hùng Vương. Có phụ tá là Hùng Hầu, chia đất cho các Hùng Tướng.”

Thủy kinh chúquyển 37, Diệp Du hà (Bắc Ngụy – Lịch Đạo Nguyên soạn) dẫn Giao châu ngoại vực kí chép: “交趾昔未有郡縣之時,土地有雒田,其田從潮水上下,民墾食其田,因名為雒民,設雒王、雒侯,主諸郡縣。” – “Đất Giao Chỉ ngày xưa khi chưa đặt thành quận huyện, đất đai có ruộng Lạc, dân làm ăn ở ruộng ấy theo nước thủy triều lên xuống, nhân đó có tên là dân Lạc, đặt ra Lạc Vương – Lạc Hầu để làm chủ các quận huyện, huyện phần nhiều có chức Lạc tướng, Lạc tướng đeo ấn đồng thao xanh.” [30]

Sử kí, quyển 113, Nam Việt liệt truyện, 53, Sách ẩn (Đường – Tư Mã Trinh soạn) dẫn Quảng châu kí chép: “《史記》卷百一十三南越列傳第五十三索隱引《廣州記》云:交趾有駱田,仰潮水上下,人食其田,名為駱人。有駱王、駱侯。諸縣自名為駱將,銅印青綬,即今之令長也。後蜀王子將兵討駱侯,自稱為安陽王,治封溪縣。後南越王尉他攻破安陽王,令二使典主交阯、九真二郡人。” – “Giao Chỉ có ruộng Lạc, dân trông nước thủy triều lên xuống mà làm ăn ở ruộng ấy nên đặt tên là người Lạc. Có các chức Lạc Vương – Lạc hầu, các huyện tự đặt chức Lạc tướng đeo ấn đồng dải xanh, tức là chức Lệnh-Trưởng ngày nay vậy. Sau đó con vua Thục đem quân đánh Lạc Hầu, tự xưng là An Dương Vương, trị ở huyện Phong Khê. Sau nữa vua Nam Việt là Úy Tha đánh phá An Dương Vương, sai hai sứ giả điển chủ người hai quận Giao Chỉ-Cửu Chân.” [30]

Như chúng tôi đã chứng minh trong bài viết khác, chính xác phải là Hùng Vương chứ không phải Lạc Vương [31]. Các ghi chép này đều nhắc tới “Giao Chỉ”, mà không nhắc tới “quận”, chứng tỏ đây là một khái niệm Giao Chỉ lớn, chỉ toàn bộ lãnh thổ của tộc Việt qua các giai đoạn, như trong Thủy Kinh chú, sách này có ghi “Đất Giao Chỉ ngày xưa khi chưa đặt thành quận huyện”, như vậy đây chính xác là khái niệm Giao Chỉ lớn chỉ toàn bộ vùng đất Việt.

Mở rộng hơn về các ghi chép của Việt Nam như trong chính sử Đại Việt sử ký toàn thư do Ngô Sĩ Liên soạn, hay truyện họ Hồng Bàng trong sách Lĩnh Nam chích quái cũng chép về quốc gia của tộc Việt tương đồng với các ghi chép về quốc gia chung của tộc Việt dưới khái niệm Giao Chỉ hay địa bàn phân bố của cộng đồng tộc Việt. Người Việt từng sinh sống trong vùng Dương Tử, là một thành phần quan trọng của cộng đồng tộc Việt, rồi mới di cư về phía Nam, nên họ làm chủ vùng đất từ Dương Tử trở về Nam không có gì bất hợp lý, chưa kể có rất nhiều bằng chứng cùng góp phần chứng minh sự tồn tại của quốc gia này, sử sách Trung Quốc cũng xác minh sự ghi chép của các sách Việt Nam. Tộc Việt đã có quốc gia chung từ vùng Dương Tử, sau đó giãn dân theo dòng di cư tới Việt Nam, họ vẫn tiếp tục phát triển trong một quốc gia chung, sau đó được ghi chép trong cổ sử Trung Hoa dưới nhiều cái tên như Dương Việt, Lạc Việt, Bách Việt.

Đại Việt sử ký toàn thư chép: “Vua lấy con gái của Đế Lai là Âu Cơ, sinh ra trăm con trai, là tổ của Bách Việt. Một hôm, vua bảo Âu Cơ rằng: “Ta là giống rồng, nàng là giống tiên, thủy hỏa khắc nhau, chung hợp thật khó”. Bèn từ biệt nhau, chia 50 con theo mẹ về núi, 50 con theo cha về ở miền Nam, phong cho con trưởng làm Hùng Vương, nối ngôi vua, đóng đô ở Phong Châu. Hùng Vương lên ngôi, đặt quốc hiệu là Văn Lang (nước này đông giáp biển Nam Hải, tây đến Ba Thục, bắc đến hồ Động Đình, nam giáp nước Hồ Tôn, tức nước Chiêm Thành, nay là Quảng Nam).” [24]

Truyện họ Hồng Bàng chép: “Trăm trai đều nghe mệnh, rồi mới từ giã mà đi. Âu Cơ cùng với năm mươi người con trai ở tại Phong Châu – (bây giờ là huyện Bạch Hạc), tự suy tôn người hùng trưởng lên làm vua, hiệu là Hùng Vương, quốc hiệu là Văn Lang; về bờ cõi của nước thì Đông giáp Nam Hải, Tây đến Ba Thục, Bắc đến Động Đình hồ, Nam đến nước Hồ Tôn Tinh (bây giờ là nước Chiêm Thành).” [25]

Quốc gia này cũng chính là quốc gia chung của cộng đồng tộc Việt mà sách sử Trung Quốc đã chép lại, nó tương ứng với địa bàn từ vùng Dương Tử về tới Việt Nam, như vậy, về cơ sở, có thể thấy quốc gia Văn Lang có những cơ sở cực kỳ vững chắc về sự tồn tại. Tên gọi quốc gia Văn Lang không chỉ có trong cổ sử Việt Nam, mà sử Trung Quốc cũng chép về nước Văn Lang.

Sách 太平御覽 Thái Bình Ngự Lãm, Bắc Tống (977 – 984). Chương Châu quận bộ thập bát 州郡部十八. Đoạn Lĩnh Nam Đạo 嶺南道. Nguyên văn:《方輿志》曰:峰州,承化郡。古文郎國,有文郎水。亦陸梁地。秦屬象郡。二漢屬交趾郡。吳分置新興郡。晉改為新昌。陳置興州。隋平陳,改為峰州;煬帝初,廢。唐復置峰州。” – Tạm dịch: “Phương Dư chí viết: Phong Châu tức quận Thừa Hóa. Xưa là nước Văn Lang, có sông Văn Lang. Cũng là đất Lục Lương. Thời Tần thuộc Tượng quận. Tây Hán và Đông Hán thuộc quận Giao Chỉ. Nhà Ngô chia ra xếp vào quận Tân Hưng. Tấn đổi thành Tân Xương. Nhà Trần (557-589) gọi là Hưng Châu. Tùy thay Trần, cải ra Phong Châu; từ những năm đầu Tùy Dạng Đế (604-618) thì bãi bỏ. Đường triều khôi phục đặt là Phong Châu. ” [32]

Sách này chép rõ Phong Châu là nơi có quốc gia Văn Lang, đây cũng chính là kinh đô của nước Văn Lang theo các ghi chép tại Việt Nam. Ghi chép của sách Thái Bình Ngự Lãm đã cho chúng ta thấy cơ sở thực tế của nước Văn Lang, nó thực sự tồn tại trong ghi chép lịch sử, không phải huyền sử huyễn hoặc và không có thực. Các ghi chép lịch sử cũng đã cho chúng ta thấy được những cơ sở chặt chẽ về quốc gia chung của cộng đồng tộc Việt, không gì khác hơn, nó chính là quốc gia Văn Lang do các vua Hùng làm chủ, kế thừa nhà nước từ các văn hóa trong vùng Dương Tử.

Những vật đại diện quan trọng nhất cho quyền lực trung tâm của các vị vua Hùng trong vùng miền Bắc Việt Nam, đó là nha chương và trống đồng. Nha chương văn hóa Phùng Nguyên đại diện cho quyền lực nhà nước, theo Chu Lễ, thì: “牙璋以起軍旅,以治兵守。” – “Nha chương dùng để điều động quân đội, chỉ huy quân đồn trú”. Như vậy, với tổ chức nhà nước đã có từ vùng Dương Tử, thì tộc Việt tiếp tục kế thừa trong văn hóa Nguyên, với đại diện là những chiếc nha chương bằng ngọc.

Nha chương văn hóa Phùng Nguyên. [Nguồn: Bảo tàng Hùng Vương, dẫn]

Tới thời kỳ Đông Sơn, thì trống đồng của cộng đồng tộc Việt và biểu trưng quan trọng nhất của quyền lực cả về chính trị và tâm linh [33][34], tại Việt Nam, là nơi tìm thấy những chiếc trống lớn và tinh xảo nhất so tất cả các vùng tộc Việt khác. Vùng ảnh hưởng rộng lớn của văn hóa Đông Sơn [35], cũng chính là cơ sở cho chúng ta thấy được rằng văn hóa Đông Sơn, thì người Việt cũng có một quốc gia, vẫn là quốc gia do các vị vua Hùng làm chủ, kế thừa từ văn hóa Phùng Nguyên và các văn hóa trong vùng Dương Tử.

1. Trống đồng Sông Đà, hiện đang trưng bày tại Bảo tàng Guimet, Pháp. [dẫn]; 2. Trống đồng Khai Hóa, hiện đang trưng bài tại Bảo tàng Dân tộc học Vienna, Áo. [dẫn]; 3, 4. Trống đồng Hoàng Hạ và trống đồng Ngọc Lũ, hiện đang trưng bày tại Bảo tàng lịch sử Việt Nam. 

Thời kỳ Hùng Vương bắt đầu từ thời văn hóa Phùng Nguyên, với niên đại ước tính khoảng 2000 năm TCN, cho tới khi triều Hùng Vương suy yếu, phải nhường ngôi cho Thục Phán, là năm 258 TCN, tính tổng thời gian, thì triều Hùng Vương đã tồn tại hơn 1742 năm, quả thực đây là một triều đại hiếm có, cả trong lịch sử Đông Á và lịch sử thế giới. Đối với tộc Việt, sự duy trì và kế thừa xuyên suốt trong hơn 1742 năm đó, cho chúng ta thấy được ý thức thống nhất và đoàn kết của cộng đồng tộc Việt là mạnh mẽ tới như thế nào. Cũng từ đó, chúng ta thấy được, tại sao Tổ Hùng Vương lại chiếm một vai trò quan trọng như vậy trong tâm thức của người Việt.

Sơ đồ phân tích tiến trình phát triển của văn hóa Đông Á cổ và văn hóa tộc Việt, kết hợp giữa di truyền, khảo cổ, lịch sử (thành văn và truyền miệng).

Với tất cả những cơ sở khảo cứu từ nhiều tư liệu khảo cổ, các tư liệu lịch sử Trung Hoa và Việt Nam, chúng ta đã thấy được rằng cộng đồng tộc Việt đã có những quốc gia chung từ 5300 năm trước ở văn hóa Lương Chử, sau đó tiếp tục kế thừa ở văn hóa Thạch Gia Hà, tuy nhiên, tới thời điểm 4000 năm, thì cộng đồng tộc Việt tan rã do hạn hán trong vùng Dương Tử, sau thời điểm này, thì cộng đồng tộc Việt tiếp tục phát triển trong một quốc gia, được tài liệu lịch sử Trung Quốc ghi chép lại tương ứng với địa bàn sinh sống của cộng đồng tộc Việt: từ Việt Nam tới Dương Tử, cũng tương ứng với vùng phân bố của quốc gia Văn Lang của người Việt. Như vậy, xuyên suốt từ hơn 5300 năm trước cho tới khi tan rã là khoảng năm 258 TCN, thì cộng đồng tộc Việt đã tồn tại trong cộng đồng chung trong một thời gian rất dài, dưới một quốc gia thống nhất, có sự thống nhất về ý thức dân tộc, di truyền, văn hóa và cả lịch sử, những vấn đề liên quan tới lịch sử của cộng đồng tộc Việt sẽ được chúng tôi khảo cứu chi tiết hơn trong các phần phía sau đây.

III. NHỮNG KHÁI NIỆM CHỈ CHUNG CỘNG ĐỒNG TỘC VIỆT:

Cộng đồng tộc Việt tiếp tục phát triển và sinh sống trong một cộng đồng chung, một quốc gia chung, nên về mặt di truyền, cộng đồng tộc Việt có sự thống nhất cao ở các dân tộc hiện vẫn chưa bị đồng hóa trong địa bàn cũ của quốc gia Văn Lang [3], các nhóm dân cư Hán trong vùng Quảng Đông, Quảng Tây, Quảng Nam hiện vẫn rất gần với người Việt, bên cạnh đó, người Hán các vùng phía Nam khác cũng gần với người Việt hơn là người Hán ở phía Bắc. Về khảo cổ, thì cộng đồng tộc Việt cũng có sự thống nhất trên các di vật khảo cổ, đều thuộc chung nền văn hóa Đông Sơn. [35].

Sự thống nhất của tộc Việt còn được thể hiện trong các ghi chép lịch sử, dưới 3 tên gọi: Dương Việt, Lạc Việt, Bách Việt, thì cộng đồng tộc Việt là một khối thống nhất, tuy nhiên, khái niệm thứ ba đã gây ra nhiều hiểu nhầm trong nguồn gốc về cộng đồng tộc Việt, với chữ “Bách” trong “Bách Việt” thường được mặc định là “100”, tức “Bách Việt” là “100 tộc Việt”, ghép từ Bách vào tên Việt của dân tộc Việt là một cách để người Hoa Hạ định hướng nhận định về cộng đồng tộc Việt, và quả thực, nó đã có những ảnh hưởng cực kỳ sâu rộng, gần như biến lịch sử về cộng đồng tộc Việt chìm vào trong bóng tối của quên lãng. Nhưng lịch sử của họ chính là những tư liệu không thể phủ nhận, chúng cũng giúp cho chúng ta thấy được sự thống nhất của cộng đồng tộc Việt dưới danh xưng Lạc Việt và từ chỉ đất Việt là Dương Việt.

1. Lạc Việt:

Đầu tiên là khái niệm Lạc Việt, tên gọi Lạc Việt là một trong những cái tên quan trọng và được chép lại nhiều nhất trong cổ sử Trung Hoa, nó thường được xem như là từ để chỉ người Việt tại miền Bắc Việt Nam, nhưng qua các tài liệu lịch sử, thì nhiều khả năng, tên Lạc Việt là tên gọi chung của cả cộng đồng tộc Việt, chứ không chỉ mình người Việt tại miền Bắc Việt Nam.

Sách Lã Thị Xuân Thu chép: “和之美者:阳朴之姜,招摇之桂,越骆之菌 hòa chi mĩ giả: Dương phác chi khương, Chiêu dao chi quế, Việt Lạc chi khuẩn ” Cao Dụ 高诱 chú “越骆,国名。菌,竹笋”= “Việt Lạc: quốc danh. Khuẩn: măng trúc”. [36]

Việt Lạc trong cách gọi trên được xem là quốc danh, Việt Lạc cũng là Lạc Việt, do cú pháp viết ngược mà thành, từ đoạn trích trên, có thể thấy tác giả thấy người Việt khắp nơi đều tự nhận mình là Việt Lạc, nên cho rằng đây là quốc danh.

Sách Dư địa chí của Cố Dã Vương 顾野王 (519 – 581) đã viết như sau: “ 交趾,周时为骆越,秦时曰西瓯。”- “Giao Chỉ, Chu thời vi Lạc Việt, Tần thời viết Tây Âu” [37]

Giao Chỉ ở đây là Giao Chỉ bộ, được sử dụng để chỉ một vùng đất rộng lớn, trong thời Chu thì khái niệm Giao Chỉ tương ứng với Lạc Việt, điều này có nghĩa đây có thể là danh xưng của cả cộng đồng tộc Việt trong vùng Giao Chỉ. Tới thời Tần, thì khái niệm bắt đầu chuyển sang Tây Âu, tức là Tây Âu Lạc được chép trong sách Sử Ký của Tư Mã Thiên.

Hồ Bắc, phía Bắc hồ Động Đình, chính là cội nguồn của người Việt, cũng là nơi sinh sống của người Lạc Việt.

Hậu Hán Thư chép: “十一年將兵至中盧屯駱越是時公孫述將田戎任滿與征南大將軍岑彭相拒於荆門彭等戰數不利越人謀畔從蜀宫兵少力不能制㑹屬縣送委輸車數百乗至宫夜使鋸斷城門限令車聲回轉出入至旦越人候伺者聞車聲不絶而門限斷相告以漢兵大至其渠帥乃奉牛酒以勞軍營宫陳兵大㑹擊牛釃酒饗賜慰納之越人由是遂” –“Năm thứ 11 (đời Hán Quang Võ, tức năm 35, trước khởi nghĩa Hai Bà Trưng 5 năm) Tang Cung đem binh đến huyện Trung Lư (sau là huyện Nam Chương thủ phủ là Tương-Phàn Thị tức Tương Dương và Phàn Thành), đóng đồn (trên đất cư trú của người) Lạc Việt. Lúc đó Công Tôn Thuật (thế lực cát cứ đang chiếm đất Thục) sai tướng Điền Nhung, Nhiệm Mãn ra cự địch với Chinh nam đại tướng quân Sầm Bành ở Kinh môn, Bành nhiều lần đánh mà không thắng (sau Bành bị quân thích khách của Thục giết!), người Việt do đó muốn làm phản theo Thục, Cung binh ít, không đủ lực lượng khống chế.” [37]

Sách Thông Điển của Đỗ Hựu đời Đường, chương Cổ Nam Việt cũng có nhắc tới Tây Âu là đất của người Lạc Việt. “古西甌、駱越之地” – “Cổ Tây Âu, Lạc Việt chi địa”, tạm dịch: “Cổ Tây Âu là đất của Lạc Việt”. Một đoạn trích khác cũng có ý nghĩa tương tự: “西甌即駱越也” “Tây Âu cũng là Lạc Việt”.

Các tài liệu khác cho chúng ta thấy Tây Âu là một khái niệm nhỏ hơn so với phạm vi của khái niệm Lạc Việt, hay Tây Âu là một nhánh của người Lạc Việt.

Cựu Đường thư, Địa lý chí chép: “貴州鬱平漢廣鬱縣地,屬鬱林郡。古西甌、駱越所居。” – “Huyện Uất Bình của châu Quý là huyện Quảng Uất thuộc quận Uất Lâm thời nhà Hán. Là chỗ mà người Tây Âu, Lạc Việt ở.” [B]

Phương ngôn (Hán – Dương Hùng soạn, Đông Tấn – Quách Phác chú): “允、訦、恂、展、諒、穆,信也。齊魯之間曰允,燕代東齊曰訦,宋衞汝潁之間曰恂,荊吳淮汭之間曰展。西甌毒屋黃石野之間曰穆。西甌,駱越別種也,音嘔。” – “Các từ doãn, kham, tuân, triển, lượng, mục là nói về ‘tín’. Vùng nước Tề-Lỗ gọi là ‘doãn’; vùng nước Yên-Đại, Đông Tề gọi là ‘kham’; vùng nước Tống-Vệ, Nhữ-Dĩnh gọi là ‘tuân’; vùng nước Kinh-Ngô, Hoài-Nhuế gọi là ‘triển’; vùng Tây Âu, Độc Thất, Hoàng Thạch Dã gọi là ‘mục’. Tây Âu là một chủng khác của người Lạc Việt, đọc là ‘âu’.” [B]

Huyện Mậu Danh, vùng Quảng Đông cũng là nơi sinh sống của người Tây Âu và người Lạc Việt.

Cựu đường thư – Địa lí chí chép: “潘州茂名州所治。古西甌、駱越地,秦屬桂林郡,漢為合浦郡之地。” – “Huyện Mậu Danh của châu Phan là sở trị của châu. Là đất của người Tây Âu, Lạc Việt thời xưa. Thời Tần thuộc quận Quế Lâm, thời nhà Hán là đất của quận Hợp Phố.” [B]

Như vậy, thông qua sự so sánh, đối chiếu và tổng hợp các tài liệu lịch sử, có thể thấy Lạc Việt là một tên gọi chung của cộng đồng tộc Việt, bên cạnh tên gọi này, cộng đồng tộc Việt còn được ghi chép dưới hai cái tên là Dương Việt và Bách Việt.

2. Dương Việt:

Tiếp theo là tên Dương Việt, tên gọi Dương Việt xuất hiện từ rất sớm, được chép lại lần đầu tiên trong Chiến Quốc sách, nó cũng thể hiện khá rõ ràng sự thống nhất của cộng đồng tộc Việt.

Chiến Quốc sách viết về Ngô Khởi (440TCN-381TCN):  “南攻楊越,北並陳、蔡” –  “Nam đánh Dương Việt, bắc thôn tính Trần,  Sái”. [32]

Phía Nam đất Sở thời điểm này vẫn là đất của cộng đồng tộc Việt, nên Chiến Quốc sách đã chép “Nam đánh Dương Việt”, tức là vùng đất của người Việt ở phía Nam, đây là một tên gọi chỉ chung cộng đồng tộc Việt, tương tự như khái niệm Lạc Việt.

Sử Ký của Tư Mã Thiên viết: “秦時已并天下,略定楊越,置桂林、南海、象郡” – “Thời Tần thôn tính thiên hạ, lược định Dương Việt đặt làm các quận Quế Lâm, Nam Hải, Tượng quận.” [32]

Phần “Tự tự” của Thái Sử Công trong Sử Ký viết như sau: “漢既平中國,而佗能集楊越以保南藩,納貢職。作南越列傳第五十三” – “Nhà Hán đã bình được Trung quốc, mà Triệu Đà biết chiêu tập được bọn Dương Việt để bảo vệ bờ cõi phía Nam, chịu nạp cống lễ. Nên ta viết thành quyển thứ 53 “Nam Việt Liệt Truyện”. [32]

Cả hai đoạn trích được chép trong Sử Ký của Tư Mã Thiên đều cho thấy Dương Việt được sử dụng để chỉ chung cộng đồng tộc Việt, vào thời nhà Tần, thì đất đai tộc Việt chỉ còn bao gồm vùng Lưỡng Quảng, Việt Nam và đảo Hải Nam, vùng đất cũ này tương ứng với khái niệm Dương Việt và Tây Âu.

Trong phần Hóa thực liệt truyện, Tư Mã Thiên còn viết: “九疑、蒼梧以南至儋耳者,與江南大同俗,而楊越多焉。- ”Từ Cửu Nghi, Thương Ngô về phía nam tới Đam Nhĩ, phong tục đại để giống vùng Giang Nam, mà đa số là dân Dương Việt”. [32]

Theo tư liệu phục nguyên của Trịnh Trương Thượng Phương và Phan Ngộ Vân cho các chữ dương 陽và 楊, thì các chữ này là giống nhau và trùng chính xác với âm “lang”. Có tác giả như Vương Lực thì còn phục nguyên có giới âm -i- tức đọc gần như “lương”. Như vậy tên nước Dương Việt 楊越 trong thư tịch cổ của Trung Quốc cũng đọc là Lang Việt. Vì vậy, từ Giang Nam về phía Nam, có phong tục giống nhau, đều cùng là dân Lang Việt hay Dương Việt. [32]

Trong sách Phương Ngôn của Dương Hùng đời Tây Hán cũng có hai lần đề cập tên Dương Việt,  nhưng dùng chữ dương bộ thủ  揚,  điều này cho thấy đây là tên phiên âm, chỉ lấy âm chứ không lấy nghĩa, trích một ví dụ: 癡,騃也。揚越之郊凡人相侮以為無知謂之眲。眲,耳目不相信也。或謂之斫.” – “si, ngãi dã, Dương Việt chi Giao phàm nhân tương vũ dĩ vi vô tri vị chi nạch, nạch: nhĩ mục bất tương tín dã hoặc vị chi chước”– “Si là lẩn thẩn, người Dương Việt ở đất Giao gọi những kẻ lơ ngơ chả biết gì là “nạch”, ý là tai mắt chả biết nhìn nhận chi, hoặc còn gọi là “chước”.” [32]

Trong đoạn trích này: “người Dương Việt ở đất Giao” cho chúng ta thấy đất Giao của người Việt, Giao ở đây tương ứng với Giao Chỉ bộ hoặc lớn hơn, là đất của người Dương Việt, người Việt có thể gọi tên vùng đất sinh sống của mình là một từ liên quan tới chữ Giao, theo nguồn gốc ngôn ngữ, thì từ Giao có nguồn gốc từ tiếng Nam Á, được người Hoa Hạ chép lại, có sự thay đổi về không gian và thời gian với các từ ghép cùng với nó, như Nam Giao, Giao Chỉ, Giao Châu. [38]

Như vậy, thì khái niệm Dương Việt cũng được sử dụng để chỉ chung cộng đồng tộc Việt, một cộng đồng dân cư thống nhất, có sự gần gũi về văn hóa, và cũng thống nhất dưới một quốc gia chung, nên trong tài liệu lịch sử Trung Hoa, họ thường nhắc tới cộng đồng này như một khối, chứ ít đề cập riêng lẻ khi nhắc tới khái niệm Dương Việt.

3. Bách Việt:

Tới thời nhà Tần, thì khái niệm Bách Việt bắt đầu xuất hiện, chữ “Bách” trong Bách Việt đã gây không ít hiểu nhầm trong nhận định về cộng đồng này, nó xuất hiện lần đầu tiên trong sách Lã Thị Xuân Thu, sau đó được sử dụng thường xuyên trong sách Sử Ký của Tư Mã Thiên, từ đó, nó đã gắn chặt với cộng đồng tộc Việt, vượt qua những ảnh hưởng về tính thống nhất của cộng đồng tộc Việt được thể hiện qua các khái niệm Lạc Việt và Dương Việt. Tuy nhiên, qua khảo cứu một số tài liệu lịch sử về khái niệm Bách Việt, chúng ta cũng sẽ thấy được sự liên hệ, thống nhất về mặt văn hóa, cũng có thể là một quốc gia của cộng đồng tộc Việt.

Bách Việt được chép lần đầu tiên trong sách Lã Thị Xuân Thu do Lã Bất Vy chủ biên: “揚、漢之南,百越之際” – “Dương Hán chi nam, Bách Việt chi tế” , nghĩa là “phía nam đất Hán là đất Bách Việt.”. Đây là lần đầu tiên khái niệm này xuất hiện, có lẽ Lã Bất Vy hiểu rất rõ ý nghĩa của từ “Bách” khi ghép cùng với tên Bách Việt, chứ không phải là ngẫu nhiên sử dụng nó trong tác phẩm của mình. Sau đó trong sách Sử Ký, Tư Mã Thiên đã nhắc khá nhiều tới Bách Việt, các tài liệu lịch sử sau này của Trung Quốc đều chép dưới khái niệm Bách Việt.

Sách Hán thư, Địa lý chí chép: “粵地牽牛、婺女之分壄也。今之蒼梧、鬱林、合浦、交阯、九真、南海、日南皆粵分也。其君禹後帝少康之庶子云封於會稽臣瓚曰「自交阯至會稽七八千里百越雜處各有種姓不得盡云少康之後也。” – “Đất Việt ở phân dã của chòm sao Khiên Ngưu, Vụ Nữ. Các quận Thương Ngô, Uất Lâm, Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu Chân, Nam Hải, Nhật Nam ngày nay đều là phân dã của đất Việt. Có quân trưởng của đất ấy là dòng dõi của vua Vũ, đấy là con thứ của vua Thiếu Khang được phong ở núi Cối Kê, Thần Toản nói: “Từ quận Giao Chỉ đến quận Cối Kê dài bảy, tám ngàn dặm có các nhóm người Bách Việt ở lẫn, đều có nhánh họ, không nên nói đều là dòng dõi của vua Thiếu Khang.” [B]

Đoạn trích này cho chúng ta thấy từ Giao Chỉ tới Cối Kê là nơi sinh sống của người Bách Việt, các quận Thương Ngô, Uất Lâm, Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu Chân, Nam Hải, Nhật Nam là đất Việt xưa, tuy nhiên địa bàn sinh sống của người Việt còn xa hơn thế, tới hồ Động Đình, vùng Vân Nam, Quý Châu và cả vùng Chiết Giang, Phúc Kiến, tương ứng với “từ quận Giao Chỉ đến quận Cối Kê”. Việc tác giả sách Hán Thư cho rằng người Việt có quân trưởng là dòng dõi của vua Vũ là không phù hợp, dòng dõi của vua Vũ chỉ tồn tại ở nước Việt, có hậu duệ là Câu Tiễn sau này.

Trong phần chú của sách Hán thư, Sư Cổ cho rằng: “師古曰「越之為號其來尚矣少康封庶子以主禹祠君於越地耳。故此志云其君禹後豈謂百越之人皆禹苗裔瓚說非也。」” – “Sư Cổ nói: “Vua nước Việt xưng hiệu đã từ lâu rồi, vua Thiếu Khang phong con thứ để lo việc thờ cúng vua Vũ, làm vua ở đất Việt vậy. Cho nên phần chí này nói quân trưởng của đất này là dòng dõi của vua Vũ, há phải là nói người Bách Việt đều là dòng dõi của vua Vũ đâu? Toản nói sai vậy.”. [B]

Như vậy sử gia Trung Quốc cũng phủ nhận quan điểm cho rằng Bách Việt là dòng dõi của vua Vũ, các tài liệu khảo cổ, lịch sử và văn hóa cũng phủ nhận quan điểm được thể hiện trong sách Hán thư, chỉ có dòng dõi Thiếu Khang, tức là tầng lớp tinh hoa của nước Việt thời Xuân Thu – Chiến Quốc mới là hậu duệ của vua Vũ nhà Hạ. Người Bách Việt phát triển hoàn toàn độc lập và không có quan hệ huyết thống gì với nhà Hạ ở phía Bắc sông Dương Tử.

Sách Thông Điển của Đỗ Hữu 杜佑 thời Đường (801), phần Châu quận chép: “自嶺而南,當唐、虞、三代為蠻夷之國,是百越之地” – “Từ dải núi Ngũ Lĩnh về phía nam, vào thời Đường – Ngu, Tam đại là nước của người Man Di, là đất của người Bách Việt .”. Sách này chú thêm: “或曰自交趾至於會稽七八千里,百越雜處,各有種姓.” – “Từ Giao Chỉ đến Cối Kê, bảy tám ngàn dặm, người Bách Việt xuất hiện khắp mọi nơi, mỗi nơi đều có một chủng tính.”

Qua đoạn trích từ sách Thông Điển, chúng ta nhận diện được hai thông tin quan trọng: thứ nhất là ở vùng phía Nam Dương Tử, từ Cối Kê tới Giao Chỉ, là nơi sinh sống của người Bách Việt, có nghĩa miền Bắc Việt Nam cũng trực tiếp thuộc cộng đồng này. Thứ hai, là người Bách Việt có một quốc gia chung, ngang với thời Đường – Ngu, tức khoảng hơn 4000 năm trước, vào trước thời điểm 4000 năm, thì tộc Việt vẫn sinh sống chủ yếu trong vùng Dương Tử, điều này cũng có nghĩa quốc gia của người Việt phải tương ứng với không gian từ vùng Dương Tử trở về Nam, chứ không chỉ từ Ngũ Lĩnh.

Trong sách Sử Ký của Tư Mã Thiên, phần Trần Thiệp thế gia, khi nói về nước Tần có chép: “Phía nam lấy đất Bách Việt, lập thành Quế Lâm, Tượng Quân. Vua của Bách Việt cúi đầu, buộc cổ nộp tính mạng cho quan coi ngục.” [39]

Về câu “buộc cổ nộp tính mạng cho quan coi ngục” thì trong sách sử của người Hoa Hạ, họ thường hạ thấp, bôi xấu kẻ thù, dù cho là thắng hay thua, để nâng cao vị thế của đất nước mình. Trong cuộc chiến chống Tần do An Dương Vương lãnh đạo sau khi giành ngôi của vua Hùng, thì An Dương Vương vẫn còn sống, đã di cư về miền Bắc Việt Nam và lập ra nước Âu Lạc, nên Tư Mã Thiên chép về việc “vua Bách Việt cúi đầu, buộc cổ nộp tính mạng cho quan coi ngục” là không có cơ sở. Ở đây, các chi tiết quan trọng hơn mà chúng tôi muốn tập trung tới, đó là “phía nam lấy đất Bách Việt”“Vua của Bách Việt”, rõ ràng qua các chi tiết này, Tư Mã Thiên đã xác nhận Bách Việt là một khối, có vua lãnh đạo, và trong đoạn trích này, ông cũng chỉ nói “lấy đất Bách Việt” có nghĩa chưa chiếm được hoàn toàn đất đai của người Việt.

Sử Ký của Tư Mã Thiên, trong phần Tôn Tử, Ngô Khởi liệt truyện có chép: “Vua Sở là Điệu Vương vốn nghe tiếng Ngô Khởi hiền, nên Khởi đến Sở liền được làm tể tướng. Khởi nêu rõ pháp luật, lệnh ra thì thi hành bỏ những chức quan không cần thiết, bỏ không chu cấp cho những người họ nhà vua đã xa nhiều đời, để hậu đãi nuôi dưỡng những người chiến đấu, cốt làm cho quân mạnh, phá tan những bọn chỉ đi nói suông về việc “hợp tung” hay “liên hoành”. Kết quả phía nam bình định Bách Việt, phía bắc lấy đất Trần, đất Thái, cự tuyệt Tam Tấn, phía tây đánh Tần.” [39]

Chi tiết trên cho chúng ta thấy người Hán cũng xem Bách Việt như một cộng đồng, khái niệm Bách Việt ở đây được đặt ngang với Trần, Thái, Tần, là các quốc gia có chủ quyền.

4. Kết luận:

Như vậy, thì các ghi chép lịch sử đã cho thấy sự thống nhất của cộng đồng tộc Việt dưới các khái niệm “Lạc Việt”, “Dương Việt”, kể cả khái niệm “Bách Việt”, loại trừ ý tứ từ chữ “Bách”, cũng cho thấy được lịch sử về một cộng đồng chung, vì vậy, đây là lý do mà chúng tôi sử dụng khái niệm tộc Việt, nó thể hiện đầy đủ tính thống nhất, tương đương với các khái niệm “Lạc Việt” và “Dương Việt” trong lịch sử. Khảo cứu sâu hơn về lịch sử tộc Việt, chúng ta sẽ có những thông tin quan trọng về quá trình mà lãnh thổ của cộng đồng tộc Việt bị thu hẹp, hay xác định cơ sở để định vị vị trí của các quốc gia như Sở, Ngô, Việt hay Nam Việt trong lịch sử tộc Việt.

IV. DANH XƯNG VIỆT THƯỜNG VÀ LỊCH SỬ TỘC VIỆT:

Trong các ghi chép lịch sử của Trung Quốc, thì Việt Thường là một cái tên xuất hiện trong nhiều ghi chép, chủ yếu là ở hai sự kiện: sự kiện thứ nhất diễn ra vào thời Đào Đường, tức nhà Hạ, khi người Việt Thường dâng rùa thần hơn ngàn tuổi có chép chữ và lịch, sự kiện thứ hai, đó là người Việt Thường dâng lên Chu Thành Vương con chim trĩ trắng. Sự kiện thứ nhất được ghi lại trong lịch sử Trung Quốc, sự kiện thứ hai được chép cả trong cả tài liệu Việt Nam và Trung Quốc, đặc biệt, sự kiện thứ hai được các tài liệu Trung Quốc chép lại rất nhiều trong lịch sử của họ.

1. Người Việt Thường dâng rùa thần lên vua Nghiêu:

Sự kiện đầu tiên, đó là người Việt Thường dâng lên vua Nghiêu “rùa thần ngàn tuổi, vuông hơn ba thước, trên lưng có chữ, đều là lối chữ khoa đẩu, ghi từ thủa mở mang về sau”, vua Nghiêu “sai chép lại gọi là lịch rùa”.

Thái Bình ngự lãm (Tống – Lí Phưởng soạn): Thuật dị kí của Nhâm Phưởng chép: “陶唐之世,越裳國獻千歲神龜,方三尺余。背上有文,皆科斗書,記開辟已來命錄之龜曆。” – “Vào thời nhà Đào Đường, người nước Việt Thường tặng rùa thần ngàn tuổi, vuông hơn ba thước, trên lưng có chữ, đều là lối chữ khoa đẩu, ghi từ thủa mở mang về sau, (vua Nghiêu) sai chép lại gọi là lịch rùa.” [B]

Những ghi chép này cũng cung cấp cho chúng ta những thông tin rất quan trọng: người Việt đã có chữ, và có lịch, chữ của người Việt là chữ Khoa Đẩu, lịch của người Việt cũng được người Hoa Hạ tiếp thu và cho chép lấy. Sự bang giao khi này gần giống như một sự truyền bá di sản văn hóa của phương Nam lên phương Bắc, vị thế của tộc Việt và người Hoa Hạ là tương đương, chứ không phải là phiên thuộc như các triều đại thời phong kiến sau này.

Trong ghi chép này, thì Việt Thường được xem là một nước, nhưng sách về cơ bản là không xác định vị trí chính xác của Việt Thường là ở đâu như nhiều sách của người Hán sau này chép, nhiều khả năng, Việt Thường là một danh xưng khi ngoại giao của tộc Việt, được tộc Việt sử dụng khi tặng cống vật cho các vị vua Hoa Hạ, người Hoa Hạ nghe người Việt tự xưng là Việt Thường mà cho rằng đó là tên quốc gia. Nhưng cách gọi “nước Việt Thường” cũng cho chúng ta thấy được người Hoa Hạ công nhận tộc Việt là một nước độc lập, chứ không phải không công nhận, phải tới các giai đoạn khởi nguồn từ thời Hán, thì Việt Thường mới bắt đầu được sử dụng để chỉ một vùng cụ thể, là phía Nam Giao Chỉ, hay là quận Cửu Chân hoặc quận Nhật Nam, vấn đề này sẽ được chúng tôi tìm hiểu sâu hơn ở phần kế tiếp.

2. Người Việt Thường dâng chim trĩ trắng cho nhà Chu:

Sự kiện tiếp theo, đó là sự kiện người Việt Thường dâng chim trĩ trắng cho nhà Chu vào thời Chu Thành Vương. Sự kiện này đã được cả sách sử, ghi chép của Việt Nam và Trung Quốc xác nhận. Tại Việt Nam, thì sự kiện này được lưu truyền dưới dạng truyền thuyết truyền miệng, sau đó được Trần Thế Pháp chép thành văn vào thời nhà Trần trong sách Lĩnh Nam chích quái, những ghi chép của Trần Thế Pháp là khá trung thực, nó tương đồng với những gì mà sách sử Trung Quốc đã chép lại, và còn cung cấp cho chúng ta nhiều thông tin quan trọng hơn so với cổ sử Trung Quốc.

Lĩnh Nam chích quái chép: “周成王時,雄王命其臣稱越裳氏,獻白雉於周。其言語不通,周公使人重譯,然後相通。周公問曰:「何為而來?」越裳氏應曰:「今天無淫雨、海不揚波三年矣。意者中國有聖人矣,故來。」周公嘆曰:「政令不施,君子不臣其人;德澤不加,君子不享其物。及記黃帝所誓曰:『交趾方外,無得侵犯。』」賞以重物,教戒放回。” – “Thời Chu Thành Vương, Hùng Vương ra lệnh quần thần của mình xưng là họ Việt Thường, dâng chim trĩ trắng cho nhà Chu, Chu Công sai người phiên dịch nhiều lần, sau mới hiểu nhau. Chu Công hỏi nói: “Cớ sao lại đến?”. Họ Việt Thường đáp nói: “Nay trời không có mưa lớn, biển không dậy sóng ba năm rồi. Nghĩ là Trung Quốc có thánh nhân chăng, cho nên đến”. Chu Công than nói: “Chính lệnh không đến, người quân tử không bắt người khác thần phục; ân đức không ban cho, người quân tử không nhận đồ dâng cống. Ghi nhớ lời thề của Hoàng Đế nói: ‘Giao Chỉ là cõi ngoài, không được xâm lấn'”. [B]

Từ đoạn trích trong sách Lĩnh Nam chích quái, chúng ta thấy được rằng, Hùng Vương đã cử một sứ thần, tự xưng họ Việt Thường dâng chim trĩ trắng cho nhà Chu. Ghi chép này cũng hoàn toàn tương đồng với các ghi chép của Trung Hoa, cũng chính xác về mặt niên đại, khi thời kỳ Chu Thành Vương của nhà Chu cũng chính là thời kỳ tồn tại của triều Hùng Vương của tộc Việt trong lịch sử tộc Việt.

Lĩnh Nam chích quái cũng cho thấy một góc nhìn từ ghi chép của người Việt: sứ thần được cử đi bởi Hùng Vương, Hùng Vương đã ra lệnh cho quần thần của mình xưng là họ Việt Thường khi tới dâng lễ vật, vì vậy, Việt Thường hoàn toàn không phải là một quốc gia độc lập, mà là một danh xưng của tộc Việt triều Hùng Vương. Đoạn trích cuối cùng cũng nói rõ: “Hoàng Đế nói: ‘Giao Chỉ là cõi ngoài, không được xâm lấn‘”, vậy mới thấy vị thế của tộc Việt từ thời Hoàng Đế tới thời Chu Thành Vương là cao như thế nào.

Những ghi chép trong cổ sử Trung Hoa cũng xác nhận sự kiện được chép lại trong sách Lĩnh Nam chích quái, câu chuyện, cách đối đáp cũng rất tương đồng với ghi chép và lưu truyền của người Việt, cũng là dâng chim trĩ trắng, cũng nêu rõ tình huống diễn ra câu chuyện dâng lễ vật. Sự kiện này được chép lại sớm nhất trong các sách Kim bản trúc thư kỉ niên, Hàn thi ngoại truyện, Bạch hổ thông đức luận, Diêm khiết luận và Hán thư.

Kim bản trúc thư kỉ niên (chưa rõ tác giả, được viết khoảng năm 299 TCN): “成王十年王命唐叔虞為侯。越裳氏來朝。周文公出居於豐。” –“Năm thứ mười thời Thành Vương (ất mùi, 1106 TCN), vua phong Đường Thúc Ngu lấy tước hầu. Người nước Việt Thường đến chầu. Chu Văn Công ra ở ấp Phong.” [B]

Bạch hổ thông đức luận, Quyển năm: Phong thiện, của tác giả Ban Cố đời Hán (năm 79) chép: “嘉禾者,大禾也,成王時有三苗異畝而生,同為一穗大幾盈車,長几充箱。民有得而上之者,成王訪周公而問之,公曰:“三苗為一穗,天下當和為一乎!”以是果有越裳氏重九譯而來矣。” – “Lúa đẹp là lúa to vậy, thời Thành Vương có ba cây lúa trồng ở đất lạ mới mọc ra, đều là một bông lớn nhỏ chở đầy xe, dài chất đầy rương. Dân lấy được thì dâng lên vua, Thành Vương thăm hỏi Chu Công mà hỏi về cái này, Công nói: “Ba cây lúa non làm một bông, thiên hạ đang hòa thuận làm một chăng!”. Sau đó quả nhiên họ Việt Thường qua chín trạm dịch mà đến. [B]

Hàn thi ngoại truyện (Hán, 150 TCN, – Hàn Anh soạn): “成王之時有三苗貫桑而生,同爲一秀,大幾滿車,長幾充箱,民得而上諸成王。成王問周公曰:”此何物也?”周公曰:”三苗同爲一秀,意者天下殆同一也。”比幾三年,果有越裳氏重九譯而至,獻白雉於周公,曰:”道路悠遠,山川幽深。恐使人之未達也,故重譯而來。”周公曰:”吾何以見賜也?”譯曰:”吾受命國之黃髪曰:’久矣,天之不迅風疾雨也,海之不波溢也,三年於茲矣。意者中國殆有聖人,盍往朝之。’於是來也。”周公乃敬求其所以來。” – “Vào thời Thành Vương có ba mầm lúa thấu qua cây dâu mà mọc, hợp cùng một bông, lớn gần đầy xe, dài gần đủ cái rương, người dân lấy mà đem dâng lên Thành Vương. Thành Vương hỏi Chu Công rằng: “Vật ấy là gì?” Chu Công nói: “Ba mầm lúa mọc cùng một bông, có lẽ là thiên hạ sắp hợp làm một vậy.” Kịp gần ba năm sau, quả nhiên có sứ giả nước Việt Thường qua chín lần phiên dịch mà đến, tặng chim trĩ trắng cho Chu Công, nói: “Đường lối xa xăm, sông núi sâu kín, sợ sứ giả không truyền lời được, cho nên nhiều lần phiên dịch mà đến đây.” Chu Công nói: “Ta cớ gì được nhận vật tặng?” Sứ giả nói: “Ta nhận lệnh ông già tóc vàng của nước ta nói: ‘Lâu rồi trời không có mưa to gió lớn, biển không dậy sóng cao, ba năm như thế rồi! Nghĩ rằng Trung Quốc sắp có thánh nhân, sao không đến chầu ở đấy!” Cho nên đến vậy.” Chu Công bèn kính theo ý mà sứ giả đến.” [B]

Qua những ghi chép này, chúng ta thấy được người Hoa Hạ có vẻ như rất xem trọng việc dâng lễ vật của tộc Việt, ghi chép theo cung cách cho rằng đây là một điềm lành hiếm có, những ca ngợi của sứ giả tộc Việt tới Chu Thành Vương cũng được xem giống như một sự công nhận đối với công đức của Chu Thành Vương vậy.

Diêm thiết luận (Hán – Hoàn Khoan soạn) chép: 昔周公處謙以卑士,執禮以治天下,辭越裳之贄,見恭讓之禮也。” – “Ngày xưa Chu Công nhún nhường để đãi kẻ sĩ, giữ lễ để trị thiên hạ, từ chối vật tặng của người nước Việt Thường, tỏ lễ khiêm nhường vậy.” [B]

Vị thế của tộc Việt qua câu nhận xét này của Hoàn Khoan được thể hiện rất rõ, thể hiện đây là một hành động bang giao của hai quốc gia ngang hàng, chứ không phải theo hai bề, một nước ở vị thế cao và một nước ở vị thế thấp.

Hán thư – Giả Quyên Chi truyện (Hán, thế kỷ I SCN – Ban Cố soạn, Đường – Nhan Sư Cổ chú): “武丁、成王,殷、周之大仁也,師古曰:「武丁,殷之高宗。」然地東不過江、黃,西不過氐、羗,南不過蠻荊,北不過朔方。是以頌聲並作,視聽之類咸樂其生,越裳氏重九譯而獻,晉灼曰:「遠國使來,因九譯言語乃通也。」張晏曰:「越不著衣裳,慕中國化,遣譯來著衣裳也,故曰越裳也。」師古曰:「張說非也。越裳自是國名,非以襲衣裳始為稱號。王充論衡作越甞,此則不作衣裳之字明矣。」此非兵革之所能致。” – “Võ Đinh, Thành Vương là các vị vua có lòng nhân của nhà Ân, nhà Chu, mà đất về phía đông không quá sông Giang-Hoàng, phía tây không qua chỗ người Đê-Khương, phía nam không quá đất Man Kinh. Thế mà tiếng ca tụng cùng réo lên, đều vui với những thứ mắt thấy tai nghe của mình, sứ giả nước Việt Thường đến qua nhiều lần phiên dịch mà tặng, Tấn chước chép: “Sứ giả nước xa đến, qua chín lần phiên dịch tiếng nói mới hiểu thông.” Trương Yến nói: “Người Việt không mặc xiêm áo, theo thói của người Trung Quốc, sai sứ giả đến mới mặc xiêm áo, cho nên gọi là Việt Thường.” Sư Cổ nói: “Trương Yến nói sai. Việt Thường tự là tên nước, không phải vì mặc xiêm áo mới có tên gọi ấy. Luận hành của Vương Sung chép là ‘Việt Thường’, chữ ấy không phải là chỉ cái xiêm là rõ rồi.” Đấy chẳng phải do cái mà binh cách dẫn đến.” [B]

Những ghi chép này cũng xác nhận về sự kiện người Việt Thường tới dâng lễ vật, chi tiết “phía nam không quá đất Man Kinh“, cho thấy được rằng lãnh thổ của người Hoa Hạ khi ấy chưa vượt qua được sông Dương Tử, mà đây vẫn là nơi sinh sống của tộc Việt mà họ gọi là “Man Kinh” (Man Kinh chỉ vùng lưu Dương Tử, Man ý chỉ người Việt phía Nam với ý miệt thị). Mở rộng khảo cứu thêm các tài liệu lịch sử, chúng ta cũng sẽ thấy được rằng sự kiện này đóng một vai trò rất quan trọng trong lịch sử của Trung Hoa, được người Hoa Hạ sử dụng như một câu chuyện nhằm nâng cao vị thế của triều đại mình.

3. Sự kiện dâng chim trĩ trắng trong lịch sử Trung Hoa:

Những ghi chép trong cổ sử Trung Hoa cho thấy, sự kiện Việt Thường Thị đóng một vai trò rất quan trọng trong lịch sử của dân tộc họ, họ ca tụng, tán thưởng nó như một sự kiện lớn, thậm chí, tới thời Hán, các ghi chép còn phỏng lại tích Việt Thường thị dâng chim trĩ trắng cho Chu Công, cho rằng Việt Thường Thị dâng ba con chim trĩ trắng và đen, ý như triều đại của họ còn hơn nhà Chu, hay như Vương Mãng cũng ngụy tạo sự kiện tương tự nhằm tự nâng cao vị thế của mình bằng triều Chu.

Luận hành (Hán – Vương Sung soạn): 成王之時,越常獻雉,倭人貢暢。幽厲歷衰微,戎狄攻周,平王東走,以避其難。至漢,四夷朝貢。孝平元始元年,越常重譯獻白雉一、黑雉二。夫以成王之賢,輔以周公,越常獻一,平帝得三。” – “Vào thời Thành Vương, người Việt Thường tặng chim trĩ, người Oa cống lúa nếp. Vào thời U-Lệ suy kém, người Nhung Địch đánh nhà Chu, Bình Vương chạy sang miền đông để tránh nạn ấy. Đến thời nhà Hán, người Di bốn phương chầu cống. Vào năm Nguyên Thủy thứ nhất (năm 5) người Việt Thường qua nhiều lần phiên dịch tặng một con chim trĩ trắng, hai con chim trĩ đen. Vậy là Thành Vương là vua hiền được Chu Công giúp, mà người Việt Thường chỉ cống một con, còn Bình Đế được ba con.” [B]

Hán thư (Hán – Ban Cố soạn, Đường – Nhan Sư Cổ chú), Bình Đế kỉ chép: “元始元年春正月,越裳氏重譯獻白雉一,黑雉二,師古曰:「越裳,南方遠國也。譯謂傳言也。道路絕遠,風俗殊隔,故累譯而後乃通。」詔使三公以薦宗廟。群臣奏言大司馬莽功德比周公,賜號安漢公,及太師孔光等皆益封。語在莽傳。” – “Năm Nguyên Thủy thứ nhất (năm 5), mùa xuân, tháng giêng, người nước Việt Thường qua nhiều lần phiên dịch tặng một con chim trĩ trắng, hai con chim trĩ đen, Sư Cổ nói: “Nước Việt Thường là nước xa ở miền nam. Phiên dịch là truyền lời. Đường lối xa cách, thói tục khác lạ, cho nên phiên dịch nhiều lần sau mới hiểu được.” Hạ chiếu sai Tam công đem tế ở tông miếu. Bầy tôi tấu nói là công đức của quan Đại tư mã tên là Mãng sánh ngang Chu Công, xin ban hiệu là An Hán Công, kịp lúc đó bọn quan Thái sư là Khổng Quang đều được phong thêm. Lời nói chép ở Vương Mãng truyện.” [B]

Hán Thư, Vương Mãng truyện chép: “始,風益州令塞外蠻夷獻白雉,元始元年正月,莽白太后下詔,以白雉薦宗廟。: – “Lúc trước, (Vương Mãng) sai quan lại châu Ích sai người Man Di ở ngoài ải đến tặng chim trĩ trắng, vào tháng giêng năm Nguyên Thủy thứ nhất thì Mãng từ lúc Thái hậu hạ chiếu bèn đem chim trĩ trắng tế ở tông miếu.” [B]

Người Trung Quốc trong các ghi chép lịch sử luôn miệng chê người Việt man di, cho rằng đây là giống người không văn minh, nhưng sự kiện họ Việt Thường dâng chim trĩ lên Chu Công lại được họ ca tụng như một sự kiện lớn lao trong lịch sử của dân tộc mình, dùng người Việt để nâng vị thế của triều đại mình nên, quả thực đây là một chuyện khá lạ lùng! Nếu người Việt thực sự là man di, thì tại sao họ lại xem trọng sự kiện người Việt tặng Chu Thành Vương chim trĩ như vậy? Về bản chất, sự kiện này cho chúng ta thấy được vị thế của người Việt thời điểm đó là rất cao, nên việc nhà Chu được người Việt tặng chim trĩ giống như một sự công nhận công đức của Chu Thành Vương, nên triều Hán sau đó cũng tạo ra một sự kiện tương tự để nâng vị thế của dân tộc mình lên.

4. Vấn đề vị trí của Việt Thường trong các ghi chép sau đó:

Các ghi chép trên cũng cho thấy rằng đa phần các tài liệu xuất hiện sớm (từ thời Hán) đều không ghi rõ về vị trí của Việt Thường, tuy nhiên, thì trong sách Thượng Thư Đại Truyện cũng được viết vào khoảng thời nhà Hán, có chép về “交阯之南,有越裳國。” – “Phía nam đất Giao Chỉ có nước Việt Thường”, từ đây thì các ghi chép trong sách vở sau này mới dần dần đặt vị trí của Việt Thường cố định là ở quận Cửu Chân hoặc Nhật Nam.

Thủy kinh chú (Bắc Ngụy – Lịch Đạo Nguyên soạn): “《林邑記》曰:九德,九夷所極,故以名郡。郡名所置,周越裳氏之夷國。《周禮》,九夷遠極越裳。白雉、象牙,重九譯而來。” – “Lâm Ấp kí viết: “Quận Cửu Đức là chỗ tận cùng của người Cửu Di, cho nên lấy tên quận ấy. Tên quận được đặt có gốc từ nước của người Di là nước Việt Thường thời nhà Chu. Chu lễ có chép đến chỗ tận cùng của người Cửu Di là nước Việt Thường. Đem chim trĩ trắng, ngà voi, qua chín lần phiên dịch mà đến.” [B]

Tấn thư – Địa lí chí (Đường – Phòng Huyền Linh soạn): “九德郡吳置,周時越常氏地。” – “Quận Cửu Đức đặt ra từ thời nhà Ngô, là đất nước Việt Thường thời nhà Chu.”. [B]

Thông điển – Châu quận điển (Đường – Đỗ Hữu soạn): “驩州今理九德縣。古越裳氏國,重九譯者也。秦屬象郡。二漢屬九真郡。吳分置九德郡,晉、宋、齊因之。隋置驩州,後為日南郡。大唐為驩州,或為日南郡。” – “Châu Hoan nay trị ở huyện Cửu Đức. Là nước Việt Thường thời xưa có sứ giả qua chín lần phiên dịch. Thời Tần thuộc quận Tượng. Thời hai nhà (Tiền-Hậu) Hán thuộc quận Cửu Chân. Nhà Ngô chia đặt ra quận Cửu Đức, nhà Tấn, Tống, Tề nhân theo nhà Ngô. Thời nhà Tùy đặt ra châu Hoan, sau lại đặt thành quận Nhật Nam. Nhà Đường là châu Hoan, có khi gọi là quận Nhật Nam.” [B]

Lương thư – Chư di liệt truyện (Đường – Diêu Tư Liêm soạn): “林邑國者,本漢日南郡象林縣,古越裳之界也。” – “Nước Lâm Ấp vốn là huyện Tượng Lâm thuộc quận Nhật Nam thời Hán, là đất của nước Việt Thường thời xưa.” [B]

Như vậy, thì ban đầu, đa phần các ghi chép trong cổ sử Trung Hoa đều không chép về vị trí của “Việt Thường”, duy chỉ có sách Thượng Thư Đại Truyện là chép về vị trí của Việt Thường là phía nam Giao Chỉ, sau đó, các ghi chép của người Hoa Hạ mới bắt đầu định vị trí của nước Việt Thường là ở quận Cửu Chân hoặc quận Nhật Nam, cho rằng nó thuộc vị trí của nước Chiêm Thành. Các ghi chép sau đó, họ lại tiếp tục đặt Việt Thường vào vị trí xa và khó hiểu hơn, tới tận nước Lão Qua hay nước Lào ngày nay.

Thánh vũ ký (Thanh– Ngụy Nguyên soạn): “老撾 即古 越裳氏 , 景 邁 二國即 八百息婦國 ,皆來貢象。” –“Nước Lão Qua là đất của họ Việt Thường thời xưa, cùng nước Cảnh Mại tức nước Bát Bách Tức Phụ, hai nước đều đến cống voi (cho nhà Thanh).” [B]

Vị trí của nước Việt Thường vì vậy không đủ cơ sở tin cậy, nhiều khả năng, trong bối cảnh người Việt đang nội thuộc Trung Hoa, và sau đó là độc lập với họ, các sách sử Trung Quốc không muốn công nhận có một quốc gia ở phía Nam, nên đã gắn nó vào cực Nam của đất Việt, hay thậm chí là đưa Việt Thường sang tận đất Lào để đánh lạc hướng.

5. Vậy Việt Thường ở đây là gì? Có phải chỉ một quốc gia độc lập?

Dựa trên những ghi chép của cả tài liệu Việt Nam và Trung Quốc, chúng tôi cho rằng, Việt Thường là một danh xưng của tộc Việt, được vua Hùng và trước đó là họ Hồng Bàng trong vùng Dương Tử đặt ra để bang giao với các triều đại phương Bắc. Nó không chỉ trực tiếp một quốc gia nào khác với quốc gia của cộng đồng tộc Việt, bởi xuyên suốt lịch sử, tên Việt chỉ được sử dụng cho cộng đồng tộc Việt trong vùng Dương Tử tới miền Trung Việt Nam, tất cả đều dưới 3 danh xưng và tên gọi chính: Lạc Việt, Dương Việt, Bách Việt như chúng tôi đã tổng hợp và phân tích ở trên. Chính các ghi chép trong cổ sử Trung Hoa cũng cho thấy các vùng Cửu Chân, Nhật Nam đều là “phân dã của đất Việt”.

Sách Hán thư, Địa lý chí chép: “粵地牽牛、婺女之分壄也。今之蒼梧、鬱林、合浦、交阯、九真、南海、日南皆粵分也。其君禹後帝少康之庶子云封於會稽臣瓚曰「自交阯至會稽七八千里百越雜處各有種姓不得盡云少康之後也。” – “Đất Việt ở phân dã của chòm sao Khiên Ngưu, Vụ Nữ. Các quận Thương Ngô, Uất Lâm, Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu Chân, Nam Hải, Nhật Nam ngày nay đều là phân dã của đất Việt. Có quân trưởng của đất ấy là dòng dõi của vua Vũ, đấy là con thứ của vua Thiếu Khang được phong ở núi Cối Kê, Thần Toản nói: “Từ quận Giao Chỉ đến quận Cối Kê dài bảy, tám ngàn dặm có các nhóm người Bách Việt ở lẫn, đều có nhánh họ, không nên nói đều là dòng dõi của vua Thiếu Khang.” [B]

Vậy thì dựa trên sự khảo cứu toàn diện các tài liệu lịch sử, hoàn toàn không đủ cơ sở để cho rằng có tồn tại một quốc gia Việt Thường nào đó ở vùng Cửu Chân hoặc Nhật Nam, hay thậm chí là tận bên Lào như những ghi chép trong thời Bắc thuộc và sau đó của người Hoa Hạ. Chúng tôi cho rằng, các ghi chép trong thời Bắc thuộc hay sau đó của người Hoa Hạ đều không muốn nhắc tới một quốc gia trong vùng phía Nam sông Dương Tử, bởi họ đang chiếm đóng, cai trị và đồng hóa cư dân tộc Việt trên vùng này, nên đã đưa nó xuống vùng Cửu Chân, Nhật Nam hay đưa sang tận Lào nhằm mục đích đánh lạc hướng.

Những ghi chép của người Việt đã thể hiện sự chính xác với các ghi chép của người Hoa Hạ, nó cũng đã cho thấy, Việt Thường là danh xưng của tộc Việt, mà đại diện là sứ giả được Hùng Vương phái đi, các ghi chép của người Hoa Hạ cũng thường nhắc tới “Việt Thường Thị”, cho chúng ta thấy cơ sở của điều đó. Bởi vậy, có thể kết luận lại, “Việt Thường” là một danh xưng chỉ chung của tộc Việt, nó đại diện cho cả cộng đồng tộc Việt khi ấy đang nằm dưới quốc gia Văn Lang của các vị vua Hùng, là một danh xưng được sử dụng cho hoạt động bang giao. Những ghi chép cho rằng nó là “một nước”, cũng cho thấy được phía Nam địa bàn sinh sống của người Hoa Hạ là một nước độc lập và có chủ quyền, chứ không phải là những bộ tộc hoang dã, không có văn minh.

V. PHONG TỤC CỘNG ĐỒNG TỘC VIỆT:

Những ghi chép trong lịch sử Trung Hoa cũng cho chúng ta thấy được khá rõ những phong tục của cộng đồng tộc Việt, những phong tục quan trọng nhất, đó là: xăm mình, cắt tóc hay búi tóc, mặc áo vạt trái (chui đầu hoặc vắt vạt sang bên trái), nhuộm răng đen. Có rất nhiều ghi chép về các phong tục này của tộc Việt.

Sử ký, Triệu Thế Gia chép: “Cắt tóc xăm mình, xăm vẽ lên cánh tay và mặc áo vạt hướng về phía trái, là [phong tục của] dân Âu Việt. Răng đen khắc trán, đội mũ da cá, mặc áo khâu bằng chỉ to, là [phong tục của] nước Đại Ngô.” [40]

Sử ký Tư Mã Thiên, Ngô Thái bá thế gia chép: “…Thái bá, Trọng Ung bèn chạy trốn đến đất Kinh Man, xăm mình cắt tóc“. [40]

Sử ký Tư Mã Thiên, Việt vương Câu Tiễn thế gia chép: “Tiên tổ của Việt vương Câu Tiễn là hậu duệ của Hạ Vũ, được phong ở Cối Kê để phụng giữ tế tự vua Vũ. Xăm mình cắt tóc, cắt cỏ hoang rồi dựng ấp ở đó.” [40]

Ở đảo Hải Nam, người Chu Nhai (Hải Nam) cũng có phong tục xăm mình như phong tục chung của tộc Việt: “… Nhìn ra xa thấy châu Chu Nhai… Nhân dân có khoảng hơn 10 vạn nhà…, xõa tóc, xăm mình, con gái phần nhiều tướng mạo đẹp, làn da trắng trẻo, tóc dài, tóc mai đẹp” [41]

Đây là các ghi chép về các phong tục chung của cộng đồng tộc Việt, phong tục của cộng đồng tộc Việt từ vùng Giang Tô cho tới Việt Nam đều có sự thống nhất. Trong các ghi chép lịch sử về người Việt và của người Việt, cũng đều ghi rõ về các phong tục này.

Tam quốc chí, Ngô thư – Tiết Tống truyện mô tả về phong tục người Việt: “椎結徒跣貫頭左袵” – “búi tóc, chân trần, áo chui đầu vạt trái”.

Truyện chim trĩ trắng trong sách Lĩnh Nam chích quái chép: “舊本曰:周公問曰:「交趾短髮文身,露頭跣足黑齒,何由若是也?」越裳氏應曰:「短髮以便山林之入。文身以為龍君之形,游泳於河,蛟龍不犯。跣足以便緣木。刀耕火種,露頭以避炎熱。食檳榔以除污穢,故黑齒。」” – “Chu Công hỏi: “Tại sao dân Giao Chỉ cắt tóc ngắn, để đầu trần, xăm mình, đi chân đất như vậy là cớ sao?”. Sứ thần đáp rằng đáp: “Cắt tóc ngắn để tiện đi trong rừng. Xăm mình để giống hình Long Quân bơi lội dưới sông loài giao long không phạm tới. Đi chân đất để tiện leo cây. Cày bằng dao, trồng bằng lửa. Ău trầu cau để trừ ô uế cho nên răng đen”. [Bản dịch của Trần Đình Hoành]

Cộng đồng tộc Việt có sự thống nhất cao về văn hóa trong một vùng rất rộng lớn, như ghi chép của Tư Mã Thiên trong phần Hóa thực liệt truyện ở sách Sử ký, thì phong tục vùng Lĩnh Nam giống vùng Giang Nam, mà “đa số là dân Dương Việt”.

Trong phần Hóa thực liệt truyện ở sách Sử ký, Tư Mã Thiên viết: “九疑、蒼梧以南至儋耳者,與江南大同俗,而楊越多焉。”  – “Từ Cửu Nghi, Thương Ngô về phía nam tới Đam Nhĩ, phong tục đại để giống vùng Giang Nam, mà đa số là dân Dương Việt.” [32]

Như vậy, về mặt văn hóa, cộng đồng tộc Việt đều có chung một phong tục, cùng chung một nền văn hóa, không phải là những dân tộc không có liên hệ gì với nhau như nhiều quan điểm đã đề xuất.

VI. TIẾN TRÌNH MẤT ĐẤT VÀ SỰ TAN RÃ CỦA CỘNG ĐỒNG TỘC VIỆT TRONG LỊCH SỬ:

Tất cả các bằng chứng khảo cổ và lịch sử đều cho thấy cộng đồng tộc Việt thống nhất dưới những quốc gia chung, bắt nguồn từ văn hóa Lương Chử vào khoảng 5300 năm trước, đây là văn hóa đầu tiên hình thành nên nhà nước và ý thức dân tộc thống nhất của tộc Việt, kế theo đó, là sự dịch chuyển trung tâm về vùng trung lưu Dương Tử, tại văn hóa Thạch Gia Hà, tại đây cũng đã được các nghiên cứu khảo cổ chứng minh về sự tồn tại của một nhà nước. Tới thời kỳ văn hóa Phùng Nguyên cho tới Đông Sơn, tộc Việt tiếp tục phát triển trong một cộng đồng chung, với trung tâm trong thời kỳ văn hóa Phùng Nguyên và thời kỳ văn hóa Đông Sơn nằm tại Việt Nam, với biểu trưng quyền lực là nha chương và trống đồng.

Trong quá trình dài phát triển như vậy, thời gian đầu, cộng đồng tộc Việt được sinh sống hòa bình trong vùng đất thuộc lãnh thổ của mình, dưới một quốc gia chung, nhưng tới thời điểm hơn 3500 năm trước, nhà Thương, triều đại khởi nguồn cho công cuộc bành trướng lãnh thổ của người Hoa Hạ, đã đánh chiếm vùng Hồ Bắc của tộc Việt, tộc Việt sau đó đã chiếm lại được vùng đất này, nhưng khoảng 100-200 năm sau đó, họ cũng đã chiếm thành công không chỉ vùng Hồ Bắc, mà còn cả các vùng hạ lưu Dương Tử như Giang Tô, Chiết Giang của tộc Việt. Các vùng đất này sau đó đã hình thành nên các quốc gia Sở, Ngô, Việt là chư hầu nhà Chu. Nhà Sở sau đó cũng thực hiện những cuộc chiến tranh đánh chiếm xuống các vùng Hồ Nam và Vân Nam của tộc Việt. Cuối cùng, nhà Tần và sau đó nhà Triệu của nước Nam Việt đã chiếm nốt vùng Lưỡng Quảng và Việt Nam. Tộc Việt như vậy đã mất tự chủ gần như hoàn toàn từ đó.

Chúng tôi sẽ tiến hành khảo cứu từng giai đoạn thông qua các nghiên cứu khảo cổ và các ghi chép lịch sử. Dưới đây là bản đồ phân tích chi tiết các mốc thời gian hình thành các quốc gia, sẽ giúp bạn đọc có một hình dung rõ nét hơn về thời điểm tách ra của các vùng đất nằm trong địa bàn của nước Văn Lang của tộc Việt mà chúng tôi sẽ tiến hành phân tích chi tiết trong các phần sau đây.

Bản đồ phân tích các thời điểm tách ra của các vùng từ quốc gia chung của tộc Việt là nước Văn Lang. Bản đồ cũng thể hiện tương đối vị trí của các quốc gia trong thực tế lịch sử.

1. Cuộc chiến tranh xâm lược vào đất Việt của nhà Thương (khoảng 3500 năm trước):

Đầu tiên, khởi nguồn cho sự bành trướng của người Hoa Hạ, đó là cuộc xâm lược của nhà Thương. Trong hệ thống truyện cổ thời Hùng Vương, truyền thuyết Thánh Gióng của người Việt có chép về sự kiện Thánh Gióng đánh giặc Ân, đây chính là dấu tích quan trọng nhất cho chúng ta thấy được cuộc chiến đầu tiên của người Việt chống lại sự xâm lược của người Hoa Hạ.

Truyện Đổng Thiên Vương chép: “Đời Hùng Vương thứ ba, thiên hạ thái bình, dân vật đầy đủ, Ân Vương lấy sự thiếu lễ triều cống, giả đi tuần thú để xâm chiếm nước ta.” [25]

Quốc gia tộc Việt có đầy đủ cơ sở về sự tồn tại như chúng tôi đã chứng minh ở trên, lãnh thổ của tộc Việt thời Đường – Ngu tới vùng Dương Tử chứ không chỉ ở miền Bắc Việt Nam, tới thời Thương – Chu, tộc Việt vẫn tiếp tục có một quốc gia chung theo ghi chép của Thông Điển, có lãnh thổ tương ứng với phân bố của cộng đồng tộc Việt, là từ Dương Tử về Việt Nam.

Cuộc chiến xâm lược vào đất Việt của nhà Thương cũng xuất hiện dấu tích trong tài liệu khảo cổ, với sự xuất hiện và biến mất nhanh chóng của văn hóa Bàn Long Thành (Panlongcheng, 1500 – 1300 BC) mang đặc trưng văn hóa nhà Thương tại vùng Hồ Bắc, đây vốn là đất của tộc Việt, với văn hóa Thạch Gia Hà nổi tiếng, một trong hai văn hóa hình thành nhà nước sớm nhất của cộng đồng tộc Việt trong vùng Dương Tử [10[11][12], có tiền thân là văn hóa Khuất Gia Lĩnh cũng trong vùng Hồ Bắc.

Bản đồ về vùng ảnh hưởng và xuất hiện các đặc trưng văn hóa nhà Thương dựa trên tài liệu khảo cổ cho thấy được sự mở rộng và thu hẹp của văn hóa Thương trong các giai đoạn. Văn hóa khởi nguồn của người Hoa Hạ là Nhị Lý Đầu chỉ nằm trong một địa bàn nhỏ hẹp tại vùng trung lưu Hoàng Hà, sau đó vào đầu thời nhà Thương, của văn hóa Nhị Lý Cương, họ đã mở rộng ra khắp vùng đồng bằng Hoàng Hà và xuống cả vùng Hồ Bắc, nhưng tới thời kỳ An Dương, thì văn hóa Bàn Long Thành biến mất, văn hóa nhà Thương từ đó cũng không còn xuất hiện tại vùng Hồ Bắc. Đối chiếu chi tiết này với truyền thuyết Thánh Gióng đánh giặc Ân, thì có thể đã diễn ra một cuộc chiến tranh xâm lược của nhà Thương, và cuộc kháng chiến giành lại lãnh thổ của tộc Việt. Cả chi tiết về khảo cổ và chi tiết trong truyền thuyết Thánh Gióng của người Việt đều cho thấy người Việt đã chiến thắng, giành lại được vùng Hồ Bắc từ nhà Thương, khiến văn hóa Bàn Long Thành hoàn toàn biến mất khỏi vùng đất này.

Vùng phân bố của các văn hóa Hoa Hạ và nhà Thương: Màu đỏ: Nhị Lý Đầu, màu vàng: Nhị Lý Cương, màu tím: An Dương) [Bản đồ dựa theo Campbell 2014: 20, 70, 108, 130, Liu and Chen 2003: 76, 88, 107, and Tan 1982: 13-14.]

Tuy nhiên, thì sau đó nhà Thương cũng đã chiếm được các vùng Hồ Bắc, Giang Tô, Chiết Giang, sau đó, các quốc gia này đã được nhà Chu phân phong cho các quý tộc nước họ, sau thành các quốc gia chư hầu nhà Chu: Sở, Ngô và Việt. Về các quốc gia Sở, Ngô, Việt, chúng tôi sẽ đi tìm hiểu về nguồn gốc của các triều đại này và xem xét vị trí của chúng trong dòng lịch sử tộc Việt.

2. Các quốc gia Sở, Ngô, Việt và tộc Việt:

Các quốc gia Sở, Ngô, Việt được thành lập vào khoảng hơn 3000 năm trước, lập quốc trên các vùng đất bị nhà Thương chiếm của tộc Việt, vì vậy, mà nguồn gốc của các quốc gia này thường có những hiểu nhầm khá phức tạp, có tồn tại những quan điểm cả cổ đại và hiện đại đã đề xuất rằng các quốc gia này mới là Bách Việt, các dân tộc phía Nam được hình thành từ những mảnh vỡ của các quốc gia này, tên Việt của người Việt có nguồn gốc từ nước Việt của Câu Tiễn, hay đi xa hơn, còn có nhiều người cho rằng vua Hùng của người Việt chính là vua của nước Sở. Bên cạnh đó, thì luồng tranh cãi giữa ba quốc gia này, còn là về vấn đề họ có thuộc lịch sử tộc Việt hay không?

Câu chuyện trong thực tế lịch sử phức tạp và đa chiều hơn thế, xét riêng về thành phần tinh hoa và thành phần dân cư, chúng ta sẽ thấy rằng các quốc gia này có tầng lớp tinh hoa là Hoa Hạ, là hậu duệ của nhà Chu, nhà Hạ, nhưng do lập quốc trên đất của người Việt, nên về thành phần dân cư là cư dân tộc Việt chiếm thành phần chủ yếu, quốc hiệu của nước Việt và Ngô Việt, đều có nguồn gốc từ danh xưng Việt của tộc Việt. Là người ngoại tộc tới cai trị, nên tầng lớp tinh hoa có nguồn gốc Hoa Hạ phải chấp nhận thuận theo văn hóa của tộc Việt, sử dụng tên gọi Việt để quy tập sự ủng hộ của dân chúng tộc Việt trong đất nước của họ.

Các ghi chép trong sách Sử ký của Tư Mã Thiên là rất rõ ràng, cho chúng ta thấy được nguồn gốc khá chi tiết của ba triều đại Sở, Ngô, Việt, bên cạnh đó, thì các tài liệu khảo cổ cũng đã cho chúng ta thấy văn hóa của tầng lớp tinh hoa các triều đại này mang đặc trưng văn hóa Hoa Hạ. [42]

a. Nguồn gốc của nước Ngô (1200 TCN):

Về nguồn gốc của nước Ngô, thì Sử ký của Tư Mã Thiên chép rõ, cho thấy Thái bá, người dựng nên nước Ngô, vốn là con của Chu vương, sau ngôi vị tương lai không được đảm bảo, nên Thái bá, Trọng Ung chạy tới vùng đất của tộc Việt, là vùng Giang Tô để lập nên nước Ngô, thuận theo phong tục của người Việt: xăm mình cắt tóc để lập quốc. Ông đã quy tập được người Việt tại đó (Kinh Man) theo mình để xây dựng quốc gia. Những bằng chứng này cho thấy về phong tục và nguồn gốc dân cư, thì đây là vùng sinh sống của cư dân tộc Việt, có phong tục tộc Việt.

Sử ký Tư Mã Thiên, Ngô Thái bá thế gia chép: “Ngô Thái bá và em trai là Trọng Ung, đều là con của Chu vương và là anh của vua Quý Lịch. Quý Lịch hiền năng, lại có người con thánh minh tên là Xương, Thái vương muốn lập Quý Lịch để truyền đến Xương, thế nên hai anh em Thái bá, Trọng Ung bèn chạy trốn đến đất Kinh Man, xăm mình cắt tóc, tỏ rằng mình không thể được trọng dụng, nhằm tránh Quý Lịch. Quý Lịch quả nhiên được lập, đó là vua Quý, còn Xương [sau] là Văn vương. Thái bá chạy trốn đến Kinh Man, tự lấy hiệu là Câu Ngô. [Người] Kinh Man cho ông là người có nghĩa, bèn theo rồi quy thuận đến hơn nghìn nhà, lập làm Ngô Thái bá.” [40]

b. Nguồn gốc của nước Việt (1000 TCN):

Việt vương Câu Tiễn là hậu duệ nhiều đời của nhà Hạ, tổ tiên của ông được phong ở Cối Kê để thờ tự vua Vũ. Tổ tiên của Câu Tiễn cũng đã cắt tóc, xăm mình theo phong tục ở đó, còn sử dụng tên gọi dân tộc của tộc Việt để lập nên nước Việt trong vùng hạ lưu Dương Tử.

Sử ký Tư Mã Thiên, Việt vương Câu Tiễn thế gia chép: Tiên tổ của Việt vương Câu Tiễn là hậu duệ của Hạ Vũ, là con ngành thứ của đế Thiếu Khang nhà Hạ, được phong ở Cối Kê để phụng giữ tế tự vua Vũ. Xăm mình cắt tóc, cắt cỏ hoang rồi dựng ấp ở đó. Hơn hai mươi đời sau, đến Doãn Thường. Thời Doãn Thường, giao chiến với Ngô vương Hạp Lư rồi kết oán thù, đánh lẫn nhau. Doãn Thường chết, con là Câu Tiễn lên thay, đó là Việt vương.” [40]

Tên Việt của tộc Việt là tên tự nhận như chúng tôi đã chứng minh ở trên, tổ tiên của Câu Tiễn đã lấy tên tự nhận của người Việt, lập nên quốc gia riêng trong vùng đất này, nhằm mục đích thống nhất và thu phục người Việt tại đó thuận theo sự cai trị của họ, không phải tên gọi của tộc Việt bắt nguồn từ quốc gia này. Cộng đồng tộc Việt cũng đã xuất hiện trước thời điểm nước Việt xuất hiện rất lâu, nên hoàn toàn không đủ cơ sở để cho rằng tộc Việt là mảnh vỡ của nước Việt.

c. Nguồn gốc nước Sở (1000 TCN):

Về nguồn gốc của nước Sở, thì Sử ký của Tư Mã Thiên cũng chép rất rõ ràng, hoàng tộc nước Sở là hậu duệ của đế Chuyên Húc Cao Dương, là hậu duệ xa của Hoàng Đế. Hùng Dịch được Chu Thành Vương cân nhắc công lao, phong cho vùng Hồ Bắc để lập quốc, đây cũng là nơi sinh sống của cộng đồng tộc Việt, nên sách mới chép “Sở Man” (man là các gọi miệt thị của người Hoa Hạ với người Việt), khi tổ tiên nước Sở khi di cư xuống, cũng phải hòa hợp với văn hóa tộc Việt tại đây để lập quốc.

Sử ký Tư Mã Thiên, Sở thế gia chép: Tổ tiên nước Sở xuất phát từ đế Chuyên Húc Cao Dương. Cao Dương là cháu nội của Hoàng Đế, con của Xương Ý. Cao Dương sinh ra Xứng, Xứng sinh ra Quyển Chương, Quyển Chương sinh ra Trùng Lê. Trùng Lê làm Hỏa chính cho đế Cốc Cao Tân, rất có công, có thể chiếu sáng cho thiên hạ, đế Cốc ban cho danh hiệu Chúc Dung. Cung Công thị làm loạn, đế Cốc sai Trùng Lê giết Cung Công thị nhưng không diệt hết. Ngày Canh Dần, đế Cốc bèn giết Trùng Lê, rồi lấy người em của Trùng Lê là Ngô Hồi làm người thừa tự cho Trùng Lê, lại giữ chức Hỏa chính, vẫn gọi là Chúc Dung.

Ngô Hồi sinh Lục Chung. Lục Chung sinh được sáu người con, đều do người phải bị nứt bị mổ mà sinh ra. Con trưởng là Côn Ngô; thứ hai là Sâm Hồ; thứ ba là Bành Tổ; thứ tư là Hội Nhân; thứ năm là Tào Tính; thứ sáu là Quý Liên, họ Mị, hậu duệ của ông chính là nước Sở. Công Ngô thị, thời nhà Hạ từng làm hầu bá, thời vua Kiệt bị Thành Thang diệt. Bành Tổ thị, thời nhà Ân từng làm hầu bá, cuối đời Ân, Bành Tổ thị bị diệt. Quý Liên sinh Phụ Tự, Phụ Tự sinh Huyện Hùng. Con cháu nửa chừng suy vi, có người ở vùng Trung nguyên, có người ở nước man di, không sao ghi chép được các đời.

Thời Chu văn vương, con cháu của Quý Liên là Chúc Hùng. Con của Chúc Hùng thờ Văn vương, mất sớm. Con của Chúc Hùng là Hùng Lệ. Hùng Lệ sinh Hùng Cuồng, Hùng Cuồng sinh Hùng Dịch.

Hùng Dịch vào thời Chu Thành Vương, Thành vương cất nhắc hậu duệ của các bề tôi cần mẫn có công thời Văn vương và Vũ phương, rồi phong cho Hùng Dịch ở Sở Man, phong tặng ruộng đất cho con trai Hùng Dịch, lấy họ Mị, sống ở Đan Dương.” [40]

Vua Sở từ ghi chép này rõ ràng có họ Mị, Hùng không phải là họ, kể cả các thời kỳ sau đó, thì các vị vua nước Sở cũng mang họ Mị, chứ không đổi sang họ Hùng, nên hoàn toàn không đủ cơ sở để cho rằng các vị vua Hùng của người Việt có nguồn gốc từ các vua nước Sở. Thời kỳ Hùng Vương của người Việt đã bắt đầu từ hơn 4000 năm trước tại Việt Nam, phải sau 1000 năm thì nước Sở mới bắt đầu hình thành.

Ghi chép trên cũng nói rằng “có người ở nước man di”, thì như vậy Tư Mã Thiên cũng công nhận phía nam vùng Dương Tử là một nước, trong các ghi chép, thì Tư Mã Thiên đều đã chép rõ về lịch sử của các nước Sở, Ngô, Việt, nên chắc chắn “có người ở nước man di” ở đây nhiều khả năng không phải chỉ các quốc gia Sở, Ngô, Việt, mà chỉ một quốc gia phía Nam khác với các quốc gia đó, đó có thể là quốc gia của tộc Việt.

d. Kết luận:

Từ các ghi chép lịch sử trong sách Sử ký của Tư Mã Thiên, thì chúng ta đã thấy được nguồn gốc Hoa Hạ của tầng lớp tinh hoa tại các quốc gia Sở, Ngô, Việt, các quốc gia này có nguồn gốc từ các vùng đất bị nhà Thương chiếm của tộc Việt vào khoảng 3100 năm trước, sau đó được nhà Chu phân phong cho các quý tộc trong triều đại của mình. Về tầng lớp thường dân, vì vốn đây là các vùng đất của tộc Việt cũ, nên thành phần dân cư chủ yếu là cư dân tộc Việt, các ghi chép trên đã thể hiện rất rõ điều đó.

Chúng ta có thể kết luận lại, các triều đại Sở, Ngô, Việt không nằm trong lịch sử của cộng đồng tộc Việt, mặc dù có nguồn gốc từ đất đai của tộc Việt, nhưng nó đã bị người Hoa Hạ chiếm và cai trị, các quốc gia này sau đó cũng tham gia cuộc tranh bá ở Trung Nguyên, thể hiện mình là những hậu duệ của nhà Chu, trong suốt thời gian tồn tại, vị trí của họ luôn luôn nằm trong dòng lịch sử của người Hoa Hạ, không hề có liên kết với lịch sử tộc Việt. Ngược lại, thì nhà Sở sau đó còn tổ chức những cuộc chiến tranh xâm lược vào các vùng đất Việt, vấn đề này sẽ được chúng tôi tìm hiểu ở phần sau đây từ các ghi chép lịch sử.

3. Các cuộc chiến tranh xâm lược tộc Việt của các triều đại Sở – Tần:

Bắt nguồn từ thời nhà Thương, người Hoa Hạ đã có sự xâm lấn bờ cõi của đất Việt, các triều đại Hoa Hạ sau đó như Sở, Tần, Hán tiếp tục kế thừa tư tưởng bành trướng của triều Thương, để xâm lấn sang vùng lãnh thổ của tộc Việt. Các ghi chép cho chúng ta thấy rõ được những cuộc chiến tranh xâm lược của các triều đại này.

a. Các cuộc xâm lăng của nhà Sở (400 TCN):

Nước Sở trong lịch sử đã thực hiện nhiều cuộc xâm lăng vào các vùng đất tộc Việt, trong đó họ đã chiếm thành công hai vùng: Hồ Nam và Vân Nam, đây là các vùng sinh sống của cư dân tộc Việt thuộc hệ ngữ Nam Á.

Cuộc chiến tranh xâm lược đầu tiên, là cuộc chiến xâm lược xuống vùng đất phía nam hồ Động Đình (Hồ Nam), cội nguồn tộc Việt của nước Sở vào khoảng năm 400 TCN.

Sử ký Tư Mã Thiên, Phạm Thư, Thái Trạch liệt truyện chép: “Ngô Khởi lập phép tắc cho vua Sở Điệu Vương, giảm bớt uy lớn của các quan đại thần, bãi những người không có năng lực, những người vô dụng, bỏ những chức quan không cần kíp, trừ việc xin xỏ ở cửa nhà tư, thống nhất phong tục nước Sở, cấm những người đi du thuyết, biểu dương những kẻ sĩ giỏi cày và chiến đấu, phía Nam lấy đất Dương Việt, phía Bắc thâu tóm đất Trần, đất Thái, phá kế liên hoành, giải tán kế hợp tung, khiến cho những kẻ sĩ đi du thuyết đều không có cách nào mở miệng, cấm bè đảng để khuyến khích trămhọ, ổn định chính trị nước Sở, binh lực nổi tiếng trong thiên hạ, uy thế làm chư hầu phải phục.” [39]

Trong ghi chép trên, chúng ta tiếp nhận được một thông tin quan trọng, đó là Ngô Khởi đã “lấy đất của Dương Việt”, đây chính là tên gọi chung vùng đất của cộng đồng tộc Việt phía Nam như chúng tôi đã chỉ ra ở phần trên, trong câu ngay sau đó “phía Bắc thâu tóm đất Trần, đất Thái”, thì Tư Mã Thiên chỉ sử dụng từ “lấy đất” cho “Dương Việt”, chứ không phải “thâu tóm” như Trần, Thái, cho thấy lãnh thổ của tộc Việt vẫn còn rộng. Những ghi chép trong Sử ký Tư Mã Thiên cũng cho thấy, Khuất Nguyên đã bị vua Sở đày xuống phía Nam, sau đó, ông đã trầm mình ở sông Mịch La, một con sông trong vùng Hồ Nam, tức phía Nam hồ Động Đình [43], đây là vùng mà nhà Sở mới chiếm được của tộc Việt, nên hãy còn là nơi mà tộc Việt sinh sống và giữ nguyên bản sắc dân tộc. Tại đây, Khuất Nguyên đã sáng tác nên tập Sở từ trứ danh, mà những mô tả của bài Đông Quân trong tập này tương đồng với các hoa văn trên trống đồng Ngọc Lũ [44], cho thấy phong tục vùng Hồ Nam là phong tục của tộc Việt, giống hệt như phong tục của người Việt tại miền Bắc Việt Nam.

Tiếp theo là cuộc xâm chiếm vào đất Điền của tộc Việt của tướng quân Trang Cược nước Sở.

Sử ký, Tây Nam di liệt truyện chép: “Ban đầu, thời Sở Uy vương, từng sai tướng quân Trang Cược đem quân men phía trên Trường Giang, chiếm phía tây đất Ba, Kiềm Trung. Trang Cược là con cháu Sở Trang vương khi trước. Cược đến Điền Trì, đất vuông ba trăm dặm, bên cạnh là đồng bằng phì nhiêu, rộng mấy nghìn dặm, Cược dùng sức quân bình định khiến họ quy phục Sở. Muốn về báo, gặp lúc Tần đánh chiếm các quận Ba, Kiềm Trung của Sở, chặn mất đường, không đi được, nhân đó trở lại, dựa vào quân đội làm vua đất Điền, thay đổi trang phục, theo phong tục cũ, làm tộc trưởng.” [45]

Trang Cược đã chiếm thành công vùng đất của tộc Việt bao gồm các vùng Điền và Kiềm Trung, trong đó Kiềm Trung chính là Quý Châu, nhưng do nhà Tần chiếm được đất Ba và Kiềm Trung, chặn lối về của Trang Cược, nên ông ta đã không đường về cố quốc, buộc phải ở lại, theo phong tục tộc Việt tại đất Điền, thay đổi trang phục để làm vua vùng đất này. Trong thời gian tồn tại, thì nước Điền có những thay đổi văn hóa đáng kể, với sự giao lưu rộng rãi với văn hóa Trung Á, văn hóa Ba Thục và văn hóa Hoa Hạ, nhưng vẫn có cốt lõi là văn hóa tộc Việt.

Sau các cuộc xâm lược này của nhà Sở, tộc Việt chỉ còn lại vùng Lĩnh Nam trở về Nam, bao gồm Lưỡng Quảng, Việt Nam và đảo Hải Nam, nhà Tần sau đó đã tổ chức một cuộc xâm lược quy mô vào đất Việt, đội quân xâm lược đã gặp phải sự kháng cự mãnh liệt của người Việt, nhưng sau đó, họ cũng đã chiếm thành công vùng Lưỡng Quảng, tại đây, Triệu Đà, một huyện lệnh nhà Tần đã lập nên quốc gia Nam Việt.

b. Cuộc chiến tranh quy mô xâm lược đất Việt của nhà Tần (218 TCN):

Sau khi thống nhất được vùng Hoa Bắc, nhà Tần đã lăm le xâm chiếm các vùng lãnh thổ xung quanh. Nhà Tần đã sai úy Đồ Thư tổ chức một đội quân có tới 50 vạn quân xâm lược vào đất Việt, chia thành 5 đạo. Các đạo này đi theo nhiều con đường khác nhau xâm nhập vào vùng Lĩnh Nam.

Bản đồ tương đối về lãnh thổ của nước Tây Âu Lạc so với nhà Tần và các quốc gia tách từ tộc Việt khác. [Nguồn bản đồ: Quora, đã chỉnh sửa cho phù hợp hơn với thực tế lịch sử thời kỳ này]

Hoài Nam Tử do Lưu An đời Hán viết, phần Nhân Gian huấn chép: “见其传曰:“亡秦者,胡也。”因发卒五十万,使蒙公、杨翁子将,筑修城。西属流沙,北击辽水,东结朝鲜,中国内郡挽车而饷之。又利越之犀角、象齿、翡翠、珠玑,乃使尉屠睢发卒五十万,为五军,一军塞镡城之岭,一军守九疑之塞,一军处番禺之都,一军守南野之界,一军结馀干之水。三年不解甲驰弩,使临禄无以转饷。又以卒凿渠而通粮道,以与越人战,杀西呕君译吁宋。而越人皆入丛薄中,与禽兽处,莫肯为秦虏。相置桀骏以为将,而夜攻秦人,大破之。杀尉屠睢,伏尸流血数十万,乃发谪戍以备之。” [46] – “Truyện xưa viết: “Nhà Tần vong, tại sao vậy”. Nguyên nhân là sai Mông công (Mông Điềm) và Tương ông đưa 50 vạn quân xây trường thành. Phía tây thì chiếm Lưu Sa, phía bắc thì đánh Liêu, phía đông thì liên kết với Triều Tiên, các quận của Trung quốc phải kéo xe đi chinh chiến. Lại ham những món lợi như sừng tê giác, ngà voi, ngọc phỉ thúy, trân châu, nên sai quan úy là Đồ Thư mang 50 vạn quân, chia làm 5 đạo đi xâm chiếm (đất Việt). Một đạo đóng ở Đàm Thành, một đạo phòng thủ ở Cửu Nghi là chỗ hiểm yếu, một đạo đóng ở Phiên Ngung làm đô thành, một đạo đóng ở Nam Dã là nơi biên giới, một đạo đóng ở sông Dư Can. Ba năm quân không cởi giáp, lúc nào cũng phải mang theo cung nỏ. Sử Lộc không tìm được hướng (để tiến quân), mới tuyển lính đào kinh để chuyển binh lương đánh người Việt, giết vua Tây Âu là Dịch Hu Tống. Vì vậy người Việt vào rừng rậm sống chung cùng muông thú, không chịu để quân Tần bắt làm tù binh. Họ kén chọn người tài trí và kiệt tuấn làm tướng, cứ đến đêm tối tấn công quân Tần, đạt được chiến thắng lớn, giết quan úy Đồ Thư, quân Tần chết cả chục vạn.” [47]

Quốc gia của tộc Việt thời kỳ này đã đổi chủ, là An Dương Vương, Thục Phán đã giành ngôi của vua Hùng, nên ngôi lấy hiệu là An Dương Vương. Quốc gia của An Dương Vương ban đầu là từ vùng Lĩnh Nam tới Việt Nam, ông cai trị đất Việt trong vài chục năm, sau đó, cũng chính An Dương Vương đã lãnh đạo người Việt chống lại nhà Tần.

Sách Dư địa chí của Cố Dã Vương 顾野王 (519 – 581) đã viết như sau: “ 交趾,周时为骆越,秦时曰西瓯。”- “Giao Chỉ, Chu thời vi Lạc Việt, Tần thời viết Tây Âu” [37], cho thấy Giao Chỉ (là một khái niệm lớn) thời Chu là Lạc Việt, thời Tần là Tây Âu, tức Tây Âu là quốc gia bao gồm cả vùng Lĩnh Nam trở về Việt Nam, tương ứng với lãnh thổ còn lại của tộc Việt sau khi các cuộc xâm lược của nhà Sở thành công, tách các vùng Hồ Nam và Vân Nam ra khỏi tộc Việt.

Trong Hoài Nam Tử chép về việc nhà Tần “giết vua Tây Âu là Dịch Hu Tống”, chúng tôi cho rằng tác giả của Hoài Nam Tử là Lưu An đã tưởng tượng ra một nhân vật không có thực, nhằm “bào chữa” cho sự thất bại của nhà Tần trước người “man di”. Vị vua lãnh đạo tộc Việt thời kỳ này là An Dương Vương, ông đã lên ngôi từ năm 258 TCN, tức trước khi nhà Tần xâm lược khoảng 40 năm, sau đó chính ông đã trực tiếp tổ chức cuộc kháng chiến chống Tần. Vì vậy, hoàn toàn không có cơ sở nào cho thấy có một nhân vật tên Dịch Hu Tống là vua của người Tây Âu.

Các ghi chép trong Hoài Nam Tử cũng đã cho chúng ta thấy được rằng, cộng đồng tộc Việt đã tổ chức một cuộc kháng chiến kiên cường và có chiến lược rõ ràng, khiến quân Tần phải khốn khổ, tiến không được, mà thoái cũng không xong, tổn hao nhân lực vật lực vô số kể. Tuy nhiên, cuối cùng, nhà Tần cũng đã chiếm ưu thế, kiểm soát được đất Việt trong vùng Lưỡng Quảng.

Diêm thiết luận – Địa quảng (Hán – Hoàn Khoan soạn): “文學曰:「秦之用兵,可謂極矣,蒙恬斥境,可謂遠矣。今踰蒙恬之塞,立郡縣寇虜之地,地彌遠而民滋勞。朔方以西,長安以北,新郡之功,外城之費,不可勝計。非徒是也,司馬、唐蒙鑿西南夷之塗,巴、蜀弊於邛、筰;橫海征南夷,樓船戍東越,荊、楚罷於甌、駱;左將伐朝鮮,開臨屯,燕、齊困於穢、貉,張騫通殊遠,納無用,府庫之藏,流於外國;非特斗辟之費,造陽之役也。由此觀之:非人主用心,好事之臣為縣官計過也。」” – “Văn học chép: “Nhà Tần dùng binh có thể nói là cùng cực rồi, Mông Điềm mở cõi có thể nói là dài rồi. Nay (nhà Hán) còn vượt cả lũy thời Mông Điềm, cướp lấy đất địch đặt quận huyện, đất dài ra mà dân khổ sở. Từ quận Sóc Phương về phía tây, từ thành Tràng An lên phía bắc, công sức để đặt quận mới, phí tổn để đắp thành ngoài cõi thì không thể kể hết. Cũng không chỉ có vậy, bọn Tư Mã (Tương Như), Đường Mông mở đường đến chỗ người Di miền tây nam, do đó người miền Ba-Thục vất vả vì người Cung-Tạc; Hoàng hải tướng quân (Hàn Thuyết) đánh người Di (Việt) miền nam, Lâu thuyền tướng quân (Dương Bộc) đóng giữ ở đất Đông Việt, do đó người miền Kinh-Sở khổ sở vì người Âu-Lạc; Tả tướng quân (Tuân Trệ) đánh nước Triều Tiên, đặt ra quận Lâm Đồn, người miền Yên-Tề khốn đốn vì người Uế-Mạch; Trương Khiên đi sứ qua lại miền xa lạ (các nước Đại Uyển, Đại Hạ) thu lấy những đồ vật vô dụng, khiến cho đồ vật trong kho phủ đem ra nước ngoài, không chỉ là phí tổn cho miền xa xôi, lao dịch cho miền Tạo Dương vậy. Do đó thấy rằng: Đấy không phải là chủ ý của nhà vua, mà là do từ bầy tôi ham việc (lập công) chuốc họa cho nhà nước vậy.”” [B]

Đoạn trích trên cung cấp thêm một số thông tin: nhà Tần còn tổ chức đánh đất của người Việt tại các vùng khác, ở đây họ gọi là người Di, bên cạnh cuộc chiến tranh xâm lược của người Âu-Lạc. Họ gọi đất của người Việt lúc này là “Âu-Lạc” cũng thể hiện cho chúng ta thấy tộc Việt lúc này có hai thành phần dân cư dưới hai khái niệm chính là Tây Âu và Lạc Việt, trong đó Tây Âu là khái niệm chỉ quốc gia tộc Việt thời kỳ này và cũng được sử dụng để chỉ người Việt tại Quảng Tây, Lạc Việt và danh xưng chung của tộc Việt và cũng được sử dụng để chỉ người Việt tại Việt Nam. Sau rốt, thì người Việt cũng đã không đủ sức để giữ lại vùng Lưỡng Quảng, nhà Tần cũng đã chiếm được thành công vùng đất này của tộc Việt, đặt ách đô hộ và cai trị, di dân tới nhằm mục đích bắt đầu quá trình đồng hóa.

Sử ký, Tần Thủy Hoàng bản kỷ chép: “Năm thứ ba mươi ba, đưa những kẻ từng bỏ trốn, ở rể, lái buôn đánh lấy đất Lục Lương, đặt làm Quế Lâm, Tượng Quận, Nam Hải, cho kẻ đi đày tới giữ, Phía tây bắc xua đuổi Hung Nô. Từ Du Trung theo Hoàng Hà về đông đến Âm Sơn, đặt bốn mươi bốn huyện, xây thành men theo Hoàng Hà làm nơi hiểm yếu. Lại sai Mông Điềm vượt Hoàng Hà đánh lấy vùng Cao Khuyết, Dương Sơn, Bắc Giả, xây thành lũy để đuổi người Nhung. Dời những kẻ đi đày tới các huyện mới đặt. Cấm không được thờ tự. Sao chổi xuất hiện ở phương tây. Năm thứ ba mươi tư, đày quan coi ngục không ngay thẳng đi xây Trường thành, hoặc tới (đóng giữ) đất Nam Việt.” [48]

Đất đai của tộc Việt sau khi nhà Tần chiếm vùng Lưỡng Quảng, chỉ còn lại vùng miền Bắc Việt Nam và đảo Hải Nam, An Dương Vương đã lui về đây để hình thành nước Âu Lạc hay Tây Âu Lạc.

Sử Ký, Nam Việt Úy Đà liệt truyện chép: “佗因此以兵威邊,財物賂遺閩越、西甌、駱,役屬焉,東西萬餘里。” – “Đà nhân đó, dùng uy lực uy hiếp nơi biên giới, đem đồ đạc của cải đút lót các nước Mân Việt, Tây Âu Lạc để bắt họ lệ thuộc theo mình.” [39]

Sau đó, thì Triệu Đà, làm quan úy nhà Tần, đã được cử làm huyện lệnh Long Xuyên, khi nhà Tần sụp đổ, ông đã thành lập nên nước Nam Việt trên vùng Lưỡng Quảng mà nhà Tần đã chiếm được của người Việt.

Bản đồ các quận thuộc nhà Tần (Lĩnh Nam) và sau đó là quốc gia Nam Việt của Triệu Đà (bao gồm cả Việt Nam).

4. Quốc gia Nam Việt của Triệu Đà (203 TCN) và sự xâm lược của người Hán:

Sau khi nhà Tần chiếm được thành công đất Việt, thì Triệu Đà được phân làm huyện lệnh Long Xuyên, khi nhà Tần suy yếu và sụp đổ, Triệu Đà đã lợi dụng cơ hội này để cát cứ thành một quốc gia riêng, là quốc gia Nam Việt, được lập nên trên đất Việt mà ông ta đang cai trị. Về nguồn gốc của Triệu Đà, thì Sử Ký của Tư Mã Thiên đã chép rất rõ, ông là người huyện Chân Định, quận Hằng Sơn, nay là Chính Định, tỉnh Hà Bắc, thuộc vùng miền Bắc Trung Quốc. Có nguồn gốc Hoa Hạ, nên nhà Hán đã sử dụng nguồn gốc này để chi phối Triệu Đà trong các hoạt động ngoại giao giữa hai nước.

Sử ký, Nam Việt Úy Đà liệt truyện chép: “Vua Nam Việt họ Triệu tên là Đà người huyện Chân Định, trước làm quan úy. Bấy giờ nhà Tần đã chiếm cả thiên hạ, cướp lấy đất Dương Việt, đặt ra các quận Quế Lâm, Nam Hải và Tượng Quận để đưa những người bị đày đến ở lẫn với người Việt. Như thế đã mười ba năm. Thời Tần, Đà được làm lệnh ở huyện Long Xuyên, thuộc quận Nam Hải. Đến đời Nhị Thế, quan úy ở Nam Hải là Nhâm Ngao, ốm sắp chết, mời huyện lệnh Long Xuyên là Triệu Đà đến (dặn Triệu Đà cát cứ trong vùng Lĩnh Nam). Đà nghe theo, khi Nhâm Ngao chết, “Đà lập tức truyền hịch bảo các cửa quan Hoành Phố, Dương Sơn, Hoàn Khê rằng: – Quân giặc sắp đến, phải chặn ngay đường, tụ tập quân sĩ để tự bảo vệ. Rồi dần dần ông dùng hình pháp giết các trưởng lại do nhà Tần đặt ra, dùng những người đồng đảng để thay thế. Khi nhà Tần đã bị tiêu diệt, Đà lập tức đánh chiếm lấy cả Quế Lâm, Tượng Quận, tự lập làm Nam Việt Vũ Vương.” [39]

Chúng ta thấy được rằng Triệu Đà có nguồn gốc từ người Hoa Hạ, làm quan trong nhà Tần, rồi lên làm huyện lệnh Long Xuyên, tiếp đó, ông lại nghe theo Nhâm Ngao, được Nhâm Ngao hỗ trợ để lên nắm quyền cai trị toàn bộ vùng đất mà nhà Tần đã chiếm được của tộc Việt. Từ đây, Triệu Đà hoàn toàn có vị thế là một người ngoại tộc cai trị người Việt, nó cũng giống như thời kỳ thuộc Pháp thời cận đại, thực hiện cai trị người Việt trên đất đai của người Việt.

Phần “Tự tự” của Thái Sử Công (Tư Mã Thiên tự viết bài tựa sách Sử Ký) viết như sau: “漢既平中國,而佗能集楊越以保南藩,納貢職。作南越列傳第五十三” – “Nhà Hán đã bình được Trung quốc, mà Triệu Đà biết chiêu tập được bọn Dương Việt để bảo vệ bờ cõi phía Nam, chịu nạp cống lễ. Nên ta viết thành quyển thứ 53 “Nam Việt Liệt Truyện”.

Triệu Đà đã có công “chiêu tập được bọn Dương Việt”, để “bảo vệ bờ cõi phía Nam”, và còn “chịu nạp cống lễ”, nên mới được Tư Mã Thiên viết thành một phần riêng, trong quyển thứ 53, ‘Nam Việt liệt truyện’. Từ đây, chúng ta thấy được Triệu Đà đối với Hoa Hạ, chính là có công mở rộng và “bảo vệ” đất phương Nam, là đất của tộc Việt mà ông ta đã cai trị, kế thừa từ vùng đất nhà Tần đã chiếm được của tộc Việt. Sự cai trị và lập quốc của ông ta đã làm nền tảng để nhà Hán có thể chiếm gọn được đất đai của tộc Việt mà không phải tốn quá nhiều công sức, trong triều đại của ông, cũng bắt đầu sự “hòa hợp Bách Việt”, tức hòa hợp giữa văn hóa tộc Việt với văn hóa Hoa Hạ, là một bước đệm để dần dần truyền bá văn hóa Hoa Hạ, từ đó tiến tới việc đồng hóa của các triều đại sau được thuận lợi hơn.

Nếu xét về thực tế lịch sử, thì quốc gia Nam Việt của Triệu Đà cũng giống như các quốc gia Sở, Ngô, Việt, vị thế của họ là có tầng lớp cai trị là người Hoa Hạ, văn hóa triều đình cũng là văn hóa Hoa Hạ, nhưng về thành dân cư, thì họ lập quốc trên các quốc gia của tộc Việt, nên phải thuận theo tên tự nhận của người Việt, văn hóa, ngôn ngữ của tộc Việt. Việc nhận tên Việt, theo một số phong tục tộc Việt không thể xem là những biểu hiện để có thể công nhận các triều đại này là chính thống của lịch sử tộc Việt. Ý thức về văn hóa và nguồn gốc Hoa Hạ của Sở, Ngô, Việt hay quốc gia Nam Việt của Triệu Đà vẫn là rất mạnh, vì vậy, họ luôn giữ quan hệ mật thiết với các quốc gia và các triều đại Hoa Hạ khác, thường tỏ ý xem thường người Việt. Trong thời kỳ này, thì Triệu Đà cũng đã thực hiện chính sách hòa hợp với Bách Việt theo yêu cầu của nhà Hán, hay nói trắng ra, đây chính là bước đệm để đồng hóa dần dần người Việt, bắt đầu từ sự đưa người ở lẫn được nhắc tới trước đó sau khi nhà Tần chiếm thành công đất Việt.

Sử ký, Nam Việt Úy Đà liệt truyện chép: “Sau khi Hán Cao Đế bình định được thiên hạ, thấy Trung Quốc mới khổ nhục, cực nhọc, nên tha Đà không trị tội. Năm thứ 11 (năm 196 trước Công nguyên), Hán sai Lục Giả sang, nhân tiện phong cho Đà làm Nam Việt Vương, chặt phù để làm tin, cho phép phái sứ giả đi lại với Trung Quốc, bảo phải hòa hợp với Bách Việt, không được gây việc lo ngại ở biên giới phía Nam.” [39]

Quốc gia Nam Việt của Triệu Đà tuy có độc lập, nhưng thực tế vẫn phụ thuộc vào nhà Hán, ý thức hướng về triều đình Hoa Hạ là rất mạnh, một phần bởi nguồn gốc và mồ mả của gia đình ông ta đều ở đất Hán, một phần bởi ý thức về nguồn gốc dân tộc cũng được duy trì trong tâm thức của Triệu Đà.

Sử ký, Nam Việt Úy Đà liệt truyện chép: “Lục Giả đến nơi, Nam Việt Vương sợ hãi, làm giấy tạ tội rằng: “Thần tên là Đà, là một kẻ già ở man di. Ngày trước Cao Hậu gạt bỏ Nam Việt, thần trộm ngờ Trường Sa Vương đã gièm pha thần. Lại nghe đồn Cao Hậu giết hết họ hàng Đà, đào mồ mả, đốt hài cốt cha ông Đà. Vì thế nên liều mạng xâm phạm biên cảnh quận Trường Sa. Vả lại phương Nam đất thấp, ẩm, dân man di ở vào giữa. Ở phía Đông đất Mân Việt chỉ vẻn vẹn nghìn người, cũng xưng hiệu là “vương”, ở phía Tây, nước Âu Lạc là nước trần truồng, cũng xưng là “vương”. Lão thần trộm dùng bậy danh hiệu “đế” chỉ để tự vui, chứ đâu dám để nói đến tai bệ hạ?”.” [39]

Như vậy chính Triệu Đà đã xác định về nguồn gốc của mình, họ hàng, mồ mả, hài cốt cha ông của ông đều ở vùng Trung Nguyên, vậy nên, nhà Hán đã sử dụng yếu tố này để chi phối Triệu Đà, sau đó thì “Đà bèn dập đầu xuống tạ tội, xin mãi mãi làm phiên thần dâng lễ cống.”. Trong lời nói của mình, Triệu Đà cũng thể hiện thái độ rất khinh thị đối với người Việt, thể hiện tư tưởng tự cho mình là vượt trội của người Hoa Hạ, xem người Việt chỉ là man di, thậm chí còn nói “nước Âu Lạc là nước trần truồng“, tâm tưởng của ông mang đặc trưng văn hóa Hoa Hạ rất rõ rệt. Nếu ông ta thực sự muốn lập nước cho riêng người Việt, bảo vệ nền độc lập cho dân tộc Việt, thì khẩu khí có lẽ đã khác.

Thời điểm nước Nam Việt được lập, thì tộc Việt vẫn còn là một vùng đất độc lập, chính là nước Âu Lạc của An Dương Vương, với lãnh thổ trong vùng Việt Nam và vùng Hải Nam, sự kiện thành lập nước Nam Việt đã đe dọa tới vùng đất độc lập nhỏ nhoi còn lại của người Việt. Trong các ghi chép lịch sử, cho thấy Triệu Đà sau đó đã nỗ lực để “chinh phục”, hay nói cách khác chính xác hơn là “xâm lược”, chiếm đoạt vùng đất còn lại của người Việt.

Tam quốc chí – Ngô thư – Tiết Tống truyện: “呂岱從交州召出綜懼繼岱者非其人上疏曰「昔帝舜南巡卒於蒼梧。秦置桂林、南海、象郡然則四國之內屬也有自來矣。趙佗起番禺懷服百越之君珠官之南是也。漢武帝誅呂嘉開九郡設交阯刺史以鎮監之。” – “Lữ Đại từ châu Giao được gọi về, Tiết Tống sợ người thay Đại không được như Đại, dâng sớ nói: “Ngày xưa vua Thuấn đi tuần miền nam chết ở quận Thương Ngô. Nhà Tần đặt ra các quận Quế Lâm, Nam Hải, Tượng, vậy thì bốn quận đã nội thuộc có từ đấy đến nay rồi. Triệu Đà nổi lên ở thành Phiên Ngu, vỗ về chinh phục quân trưởng của người Bách Việt, là những nước ở phía nam quận Châu Quan (trước là quận Hợp Phố, sau nhà Đông Ngô đổi tên ấy). Võ Đế nhà Hán đánh diệt Lữ Gia, đặt ra chín quận, đặt quan Thứ sử bộ Giao Chỉ để trông coi chín quận.” [B]

Cựu Đường thư (Hậu Tấn – Lưu Hú soạn), quyển 41 Chí 21 Địa lí 4 dẫn “Nam Việt chí” chép: “交趾之地,最為膏腴。舊有君長曰雄王,其佐曰雄侯。後蜀王將兵三萬討雄王,滅之。蜀以其子為安陽王,治交趾。其國地,在今平道縣東。其城九重,周九里,士庶蕃阜。尉佗在番禺,遣兵攻之。王有神弩,一發殺越軍萬人,趙佗乃與之和,仍以其子始為質。安陽王以媚珠妻之,子始得弩毀之。越兵至,乃殺安陽王,兼其地。” – “Đất quận Giao Chỉ rất là màu mỡ, ngày xưa có quân trưởng gọi là Hùng Vương, phụ tá là Hùng Hầu. Sau có vua Thục đem ba vạn lính đánh diệt Hùng Vương đi. Vua Thục nhân đó cho con mình làm An Dương Vương, trị đất Giao Chỉ. Đất nước ấy ở phía đông huyện Bình Đạo ngày nay. Thành nước ấy có chín vòng, chu vi chín dặm, dân chúng đông đúc. Úy Đà đóng đô ở thành Phiên Ngung phát binh sang đánh. Vương có nỏ thần bắn một phát giết một vạn quân Việt. Triệu Đà bèn hòa với vương, rồi sai con mình tên là Thủy làm con tin. An Dương Vương đem con gái tên là Mị Châu gả cho Thủy, Thủy thấy được nỏ thần bèn hủy đi. Kịp khi quân Việt đến liền giết An Dương Vương, chiếm cả nước ấy.” [B]

Thủy kinh chú – Diệp Du hà (Lịch Đạo Nguyên thời Bắc Ngụy soạn) dẫn Giao châu ngoại vực kí (tác giả khuyết danh thời Tấn) chép: “交趾昔未有郡縣之時,土地有雒田,其田從潮水上下,民墾食其田,因名為雒民,設雒王、雒侯,主諸郡縣。縣多為雒將,雒將銅印青綬。後蜀王子將兵三萬來討雒王、雒侯,服諸雒將,蜀王子因稱為安陽王。後南越王尉佗舉衆攻安陽王,安陽王有神人名臯通,下輔佐,為安陽王治神弩一張,一發殺三百人,南越王知不可戰,却軍住武寧縣。按《晉太康記》,縣屬交趾。越遣太子名始,降服安陽王,稱臣事之。安陽王不知通神人,遇之無道,通便去,語王曰:能持此弩王天下,不能持此弩者亡天下。通去,安陽王有女名曰媚珠,見始端正,珠與始交通,始問珠,令取父弩視之,始見弩,便盜以鋸截弩訖,便逃歸報南越王。南越進兵攻之,安陽王發弩,弩折遂敗。安陽王下船逕出于海,今平道縣後王宮城見有故處。《晉太康地記》,縣屬交趾,越遂服諸雒將。” – “Đất Giao Chỉ ngày xưa khi chưa đặt thành quận huyện, đất đai có ruộng Lạc, dân làm ăn ở ruộng ấy theo nước thủy triều lên xuống, nhân đó có tên là dân Lạc, đặt ra Lạc Vương-Lạc Hầu để làm chủ các quận huyện, huyện phần nhiều có chức Lạc tướng, Lạc tướng đeo ấn đồng thao xanh. Sau có con vua Thục đem ba vạn lính đánh Lạc Vương-Lạc hầu, chinh phục các Lạc tướng, con vua Thục nhân đó xưng là An Dương Vương. Sau nữa vua Nam Việt là Úy Đà đem quân đánh An Dương Vương, An Dương Vương có người thần tên là Cao Thông xuống phụ tá, làm cho An Dương Vương một chiếc nỏ thần, bắn một phát giết ba trăm người, vua Nam Việt biết không đánh được, rút quân về đóng ở huyện Vũ Ninh. Xét sách Tấn Thái Khang kí chép huyện này thuộc quận Giao Chỉ. Vua Nam Việt sai Thái tử tên là Thủy hàng phục An Dương Vương, xưng thần mà thờ vương. An Dương Vương không biết Thông là người thần, đối đãi không phải đạo, Thông bèn bỏ đi, bảo vương rằng: “Giữ được nỏ này thì làm vương thiên hạ, không giữ được nỏ này thì mất thiên hạ.” Thông đi rồi, An Dương Vương có con gái tên là Mị Châu thấy Thủy đoan chính, Châu thông giao với Thủy, Thủy hỏi Châu xin lấy nỏ của cha ra cho mình xem, Thủy thấy nỏ, bèn lén cưa đứt lẫy nỏ rồi trốn về báo cho vua Nam Việt. Vua Nam Việt tiến binh đánh vương, An Dương Vương bắn nỏ thì nỏ đã gãy, liền thua. An Dương Vương xuống thuyền đi tắt ra ở ngoài biển, thành cung cũ của vương ở huyện Bình Đạo ngày nay còn thấy vết tích. Tấn Thái Khang địa kí chép huyện này thuộc quận Giao Chỉ. Vua Nam Việt bèn chinh phục các Lạc tướng.” [B]

Triệu Đà đã dùng đủ mọi phương cách, từ chiến tranh xâm lược, tới bày mưu tính kế để có thể chiếm đoạt được vùng đất còn lại của tộc Việt, chúng tôi không cho rằng ông ta có ý định thống nhất Bách Việt, mà thực hiện công việc này với tâm thế mở rộng đất đai cho cố quốc của mình, đây cũng không khác gì hành động xâm lược của nước Sở đối với tộc Việt, cũng là vị trí của những vị vua gốc Hoa Hạ, cai trị trên đất Việt, sử dụng người Việt để chiếm đất của tộc Việt, mở mang đất đai đất đai cho triều đại của mình, hay chính xác hơn là cho tộc Hoa Hạ của mình. Nước Âu Lạc vẫn là một nước độc lập, có chủ quyền, Triệu Đà xâm lược đất Việt, biến đất Việt nội thuộc Nam Việt, cũng là một hành động xâm phạm chủ quyền quốc gia, là bước đệm, để khiến đất Việt rơi vào vòng nội thuộc nhà Hán, khởi nguồn cho giai đoạn 1000 năm Bắc thuộc đầy giông bão của người Việt.

Bản đồ nước Nam Việt thời Triệu Đà sau khi ông ta chiếm được thành công nước Âu Lạc. [Nguồn]

Sau khi Triệu Đà chết, đã xảy ra những biến cố lớn, khiến Lữ Gia, thừa tướng người Việt đã không giữ được nước Nam Việt, câu chuyện được chép lại rất rõ trong sách Sử ký của Tư Mã Thiên, chúng tôi sẽ tổng hợp lại một cách ngắn gọn nhất các chi tiết quan trọng, để thấy được tiến trình lịch sử sau khi Triệu Đà chết tới khi nhà Hán chiếm được đất Nam Việt.

Thái tử Anh Tề được cử sang nhà Hán làm con tin. Khi Anh Tề ở kinh đô nhà Hán, có lấy người con gái họ Cù và sinh với bà một người con. Tới khi anh Tề xin về, lên làm vua Nam Việt, bèn dâng thư xin cho Cù thị lên làm hậu, Hưng làm thái tử nối nghiệp. Anh Tề mất, Hưng lên thay, mẹ làm thái hậu. Từ khi chưa làm vợ của Anh Tề, thì Cù thị đã dan díu với người huyện Bá Lăng là An Quốc Thiếu Quý. Lợi dụng điểm này, vua Hán đã sai An Quốc Thiếu Quý sang dụ vua và thái hậu sang chầu. Thiếu Quý sang, lại tư thông với Cù thị. Khi ấy người trong nước phần nhiều không theo Cù thị. Thừa tướng Lữ Gia là người có quyền lực và vai trò lớn trong triều đình Nam Việt, ông vốn là người Việt, làm quan trong triều đình quốc gia này. Người Việt tin ông, ông được lòng dân hơn là vua. Cù thị sau đó đã trở thành nội gián cho nhà Hán. Lữ Gia sau đó không chấp nhận khuất phục, nên làm phản, “Lữ Gia bèn cùng em đem quân đánh giết vương, thái hậu, cùng các sứ gia của nhà Hán.” Nhà Hán sau đó đã sai đem tội nhân và mười vạn quân lâu thuyền xuống đánh Lữ Gia. Đội quân xâm lược được Lộ Bác Đức lãnh đạo, có hàng binh người Việt trợ giúp. Đội quân của Lộ Bác Đức vây hãm thành Phiên Ngung, Lữ Gia và Kiến Đức cùng gia thuộc vài trăm người chạy trốn ra biển, lấy thuyền về phía Tây. Lộ Bác Đức cho quân đuổi theo, vị quan người Việt là Đô Kê đã bắt được Gia. Từ đây, nước Việt chính thức rơi vào bóng đêm lệ thuộc các triều đại Hoa Hạ.

Bản đồ nhà Hán khi sáp nhập thành công nước Nam Việt vào lãnh thổ của mình. [Nguồn bản đồ]

Nguồn gốc Hoa Hạ là tất cả nguyên nhân giúp cho nhà Hán chiếm được thành công đất Nam Việt, ban đầu, nhà Hán sử dụng nguồn gốc của Triệu Đà để chi phối ông ta, sau đó nhà Hán tiếp tục sử dụng mưu mô, xây dựng mối quan hệ giữa Cù thị với Thái tử Anh Tề của nước Nam Việt, nhằm mục đích sử dụng làm nội gián, từ đó, đặt dấu chấm hết cho sự tồn tại của nước Nam Việt. Cù thị đã trực tiếp khiến nước Nam Việt mất đi sự tự chủ, trở thành vùng nội thuộc nhà Hán. Nhưng đây có lẽ chỉ là câu chuyện thời điểm, bởi bối cảnh về nguồn gốc Hoa Hạ của tầng lớp hoàng tộc và quý tộc nước Nam Việt, thì tư tưởng hướng về triều đình trung ương sớm muộn gì cũng sẽ diễn ra.

5. Các quốc gia Đông Âu (191 TCN) và Mân Việt (334 TCN):

Mở rộng tìm hiểu thêm về các quốc gia Đông Âu và Mân Việt, thì các tài liệu lịch sử cũng cho thấy rằng các quốc gia Mân Việt, hay Đông Âu là dòng dõi hậu duệ của Việt Vương Câu Tiễn, lập nên các quốc gia tại vùng đất cũ của nước Việt, là vùng hạ lưu Dương Tử với nước Đông Âu và vùng Phúc Kiến với nước Mân Việt.

Sử ký, Đông Việt liệt truyện chép: “Mân Việt vương Vô Chư cùng Việt Đông Hải vương Dao, tiên tổ đều là hậu duệ của Việt Vương Câu Tiễn, họ Trâu. Sau khi Tần thôn tính được thiên hạ, đều bị phế làm đầu lĩnh, lấy đất của họ lập quận Mân Trung. Đến khi chư hầu phản Tần, Vô Chư và Dao thống lãnh nước Việt theo huyện lệnh Bà Dương là Ngô Nhuế, tức Bà quân, theo chư hầu diệt Tần. Bấy giờ Hạnh Tịch là người ra hiệu lệnh, không phong cho làm vương, vì thế theo Sở. Hán đánh Hạng Tịch, Vô Chư và Dao thống lãnh người Việt giúp Hán. Nhà Hán năm thứ năm, lại lập Vô Chư làm Mân Việt Vương, làm vua ở đất cũ Mân Trung, đóng đô ở Đông Dã. Hiếu Huệ đế năm thứ ba, đề cử công của nước Việt thời Cao đế, cho rằng quân trưởng đất Mân là Dao có nhiều công lao, dân chúng thuận lòng quy phụ, bèn lập Dao làm Đông Hải vương, đóng ở Đông Âu, thế tục gọi là Âu vương.” [45]

Vậy nên trong dòng lịch sử tộc Việt, các quốc gia này cũng có vị thế tương tự như Sở, Ngô, Việt, đều là các quốc gia có tầng lớp quý tộc là Hoa Hạ và tầng lớp dân cư là tộc Việt, không phải là một thành phần trong lịch sử của cộng đồng tộc Việt.

6. Kết luận:

Thông qua việc khảo cứu toàn diện tiến trình biến động lãnh thổ của tộc Việt, chúng ta thấy được rất rõ dòng lịch sử tộc Việt khởi nguồn từ nhà Thương, tới khi người Việt rơi vào vòng nô lệ cho người Hán, chúng ta đã thấy được một bức tranh rất rõ ràng về nguồn gốc tộc Việt: các vùng hạ lưu và trung lưu Dương Tử bị nhà Thương chiếm của tộc Việt, sau đó, nhà Chu đã phân phong cho các quý tộc triều đại mình trở thành các quốc gia Sở, Ngô, Việt, đây là các quốc gia có tầng lớp tinh hoa là Hoa Hạ và tầng lớp thường dân là tộc Việt. Các quốc gia Mân Việt và Đông Âu có nguồn gốc từ hoàng tộc hậu duệ nước Việt lập nên.

Sau đó, vào khoảng 400 năm TCN, nước Sở chiếm vùng Hồ Nam, Vân Nam của tộc Việt, nhà Tần tiếp tục chiếm Lưỡng Quảng, Nam Việt chiếm nốt vùng độc lập cuối cùng còn lại của người Việt là miền Bắc Việt Nam và đảo Hải Nam, đây có thể xem là mốc mất đi tự chủ của người Việt, nhưng chính thức hơn, là khi Nam Việt sụp đổ, bởi ít nhất, thì thời kỳ thuộc Nam Việt, người Việt vẫn tiếp tục duy trì dòng văn hóa, chế độ xã hội của mình, chứ không bị cưỡng ép theo văn hóa Hán bởi những chính sách đồng hóa sau này của các triều đại Hoa Hạ.

Nhưng xét về bản chất lịch sử, thì nước Nam Việt có lẽ cũng không khác hơn vị trí của các quốc gia Sở, Ngô, Việt trong dòng lịch sử tộc Việt, họ là các triều đại do người Hoa Hạ lập nên, tuy là trên đất của người Việt, nhưng ý thức nguồn gốc, văn hóa thì họ luôn hướng về Hoa Hạ, nên dù sớm, dù muộn, thì rồi cũng về với Hoa Hạ. Việc Triệu Đà chiếm Âu Lạc cũng chính là một hành động xâm phạm chủ quyền cuối cùng của dân tộc, biến đất Việt thành lệ thuộc vào một triều đại gốc Hoa Hạ. Vì vậy, nên chúng tôi cho rằng, cũng có thể xem nhà Triệu như thời kỳ Bắc thuộc đầu tiên của người Việt, tuy chưa chính thức, nhưng đây là bước đệm khiến người Việt rơi vào vòng nội thuộc người Hán một cách dễ dàng.

VII. Ý THỨC VIỆT VÀ TINH THẦN ĐỘC LẬP CỦA TỘC VIỆT:

1. Những cuộc khởi nghĩa và nổi dậy của tộc Việt:

Người Việt sau khi rơi vào vòng lệ thuộc cho người Hoa Hạ, họ đã không hề chấp nhận sự cai trị của các triều đình Trung Quốc, mà thường phản kháng, nổi dậy, tổ chức những cuộc chiến để giành lại độc lập. Trong suốt dòng lịch sử của tộc Việt thời Bắc thuộc, thì liên tục là những cuộc khởi nghĩa của cộng đồng tộc Việt đã nổ ra.

a. Khởi nghĩa Hai Bà Trưng:

Người Việt tại miền Bắc Việt Nam là một ví dụ tiêu biểu và quan trọng nhất cho tinh thần quật khởi, kiên cường của tộc Việt, với cuộc khởi nghĩa nổi tiếng nhất trong lịch sử: khởi nghĩa Hai Bà Trưng diễn ra vào năm 40 SCN. Cuộc khởi nghĩa đã khơi dậy được tinh thần độc lập của người Việt tại các vùng, nhận được sự hưởng ứng của các cư dân tộc Việt trên khắp Lĩnh Nam, cuộc khởi nghĩa đã tạo ra một làn sóng cuốn trôi giặc ngoại xâm, chiếm được tổng cộng 65 thành trong toàn vùng Lĩnh Nam và Việt Nam.

Thủy kinh chú ( dẫn Giao Châu ngoại vực ký chép:《交州外域記》曰越王令二使者典主交趾、九真二郡民後漢遣伏波將軍路博德討越王路將軍到合浦越王令二使者齎牛百頭酒千鍾及二郡民戶口簿詣路將軍乃拜二使者爲交趾、九真太守諸雒將主民如故。交趾郡及州本治於此也。州名爲交州。後朱䳒雒將子名詩索泠雒將女名徵側爲妻側爲人有膽勇將詩起賊攻破州郡服諸雒將皆屬徵側爲王治泠縣得交趾、九真二郡民二歲調賦。後漢遣伏波將軍馬援將兵討側詩走入金溪究三歲乃得。爾時西蜀竝遣兵共討側等悉定郡縣爲令長也。” – “Giao châu ngoaị vực kí chép: “Vua nước (Nam) Việt sai hai sứ giả trông coi dân hai quận Giao Chỉ, Cửu Chân, sau nhà Hán sai Phục ba tướng quân là Lộ Bác Đức đánh vua nước Việt, Lộ tướng quân đến quận Hợp Phố, vua nước Việt sai hai sứ giả đem một trăm con bò, một ngàn vò rượu cùng sổ hộ khẩu dân hai quận đến gặp Lộ tướng quân, bèn bái hai sứ giả làm Thái thú của hai quận Giao Chỉ, Cửu Chân, các Lạc tướng vẫn trị dân như cũ. Sở trị của quận Giao Chỉ và châu vốn ở đấy vậy (huyện Mi Linh). Đặt tên châu là châu Giao. Sau có con trai của Lạc tướng huyện Chu Diên tên là Thi lấy con gái của Lạc tướng huyện Mi Linh tên là Trưng Trắc làm vợ. Trắc là người gan dũng, giúp Thi nổi dậy, đánh phá châu quận, bắt các Lạc tướng theo phục, đều thuộc quyền Trưng Trắc, làm vua, đóng đô ở huyện Mi Linh, thu thuế của dân hai quận Giao Chỉ, Cửu Chân được hai năm. Sau nhà Hán sai Phục ba tướng quân là Mã Viện đánh Trắc-Thi, chạy vào khe hang Kim, ba năm mới bắt được. Bấy giờ quận Thục phía tây cũng đem binh cùng đánh bọn Trắc, dẹp yên cả các quận huyện, đặt ra quan Lệnh, Trưởng ở đấy.” [B]

Hậu Hán Thư, Nam Man truyện chép: “Đến năm thứ mười sáu (năm 40), có người con gái Giao Chỉ tên là Trưng Trắc cùng em là Trưng Nhị làm phản, tiến đánh quận thành. Trưng Trắc là con gái Lạc tướng huyện Mê Linh, gả cho làm vợ Thi Sách người Chu Diên, là người rất hùng dũng. Giao Chỉ Thái thú Tô Định đem pháp luật để ràng buộc, Trắc phẫn nộ, bèn chống lại. Vì vậy người man Lái ở Cửu Chân, Nhật Nam, Hợp Phố đều ưởng ứng, phàm cướp được sáu mươi lăm thành, tự lập làm vua. Thứ sử Giao Chỉ cùng các Thái thú chỉ còn biết tự cố thủ. Quang Vũ bèn chiếu cho Trường Sa, Hợp Phố, Giao Chỉ chuẩn bị xe thuyền, sửa sang cầu đường, sơ thông khe núi, tích trữ thóc lúa. Năm thứ mười tám, sai Phục Ba tướng quân Mã Viện, lâu thuyền tướng quân Đoàn Chí, đem Trường Sa, Quế Dương, Linh Lăng, Thương Ngô, hơn một vạ người đến đánh. Mùa hạ, tháng Tư, năm sau, Viện phá Giao Chỉ, chém bọn Trưng Trắc, Trưng Nhị, còn lại đều hàng mà tan hết. (Viện) lại tiến đánh giặc ở Cửu Chân là bọn Đô Dương, cũng phá hàng được. Cho dời bọn đầu sỏ hơn ba trăm người đến Linh Lăng, vì vậy vùng Lĩnh Biểu bèn bình định.” [49]

Qua các ghi chép từ Hậu Hán Thư và Thủy Kinh chú, chúng ta đã thấy được tổng quan về cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng, nó bắt nguồn từ vùng đồng bằng sông Hồng, sau đó lan tỏa ra khắp các vùng tộc Việt. Cuộc khởi nghĩa đã chiếm được 65 thành, mỗi thành tương ứng với một huyện, theo thống kê thì các huyện tại các quận Lĩnh Nam như sau: Nam Hải (7 huyện), Uất Lâm (11 huyện), Thương Ngô, Giao Chỉ (12 huyện), Hợp Phố (5 huyện), Cửu Chân (2 huyện, Nhật Nam (5 huyện), tổng cộng là 53 thành, thêm các huyện trong các quận Đạm Nhĩ, Chu Nhai, thì con số chính xác cũng gần với 65 thành. Bởi vậy, cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng không chỉ có không gian trong vùng miền Bắc Việt Nam, mà còn có không gian rộng hơn trong vùng Lĩnh Nam tức đất Văn Lang thời Sở, hay đất Tây Âu thời An Dương Vương. Cuộc khởi nghĩa đã thành công, Hai Bà Trưng đã giành lại độc lập cho đất nước cũ của người Việt, kế thừa “nghiệp xưa họ Hùng”, với lãnh thổ bao gồm trọn vẹn vùng Lĩnh Nam tới Việt Nam. Nhưng sau 3 năm tồn tại, thì quốc gia của Bà Trưng Trắc đã thất bại trong việc gìn giữ nền độc lập, đất nước và quân đội tan rã dưới sự mạnh của đội quân của Mã Viện. Người Việt lại mất đi nền độc lập, tự chủ của dân tộc, rơi vào bóng tối Bắc thuộc thêm một lần nữa. Tầng lớp tinh hoa của người Việt sau khi cuộc khán chiến thất bại đã bị đày tới Linh Lăng, làm suy giảm nội lực của người Việt, nhưng không vì thế mà người Hoa Hạ có thể dập tắt được tinh thần độc lập của dân tộc Việt, người Việt vẫn liên tục nổi dậy đấu tranh trong thời Bắc thuộc, giữ gìn ý thức Việt, văn hóa tộc Việt, để sau đó giành lại độc lập cho dân tộc, khôi phục lại ý thức Việt của tộc Việt trong triều đại tự chủ đầu tiên của dân tộc là nhà Đinh.

Về nguyên nhân của cuộc khởi nghĩa, các ghi chép của Trung Quốc hay thậm chí là cả Việt Nam như Đại Việt sử ký toàn thư đều cho rằng vì “pháp luật ràng buộc” mà Hai Bà Trưng nổi dậy, nhưng nếu thực sự vì bị “pháp luật” ràng buộc mà Hai Bà nổi dậy, thì liệu cuộc khởi nghĩa có kêu gọi được sự hưởng ứng rộng lớn của cư dân tộc Việt các vùng hay không? Cuộc khởi nghĩa đã âm thầm được ấp ủ và xây dựng nghĩa binh để đánh đuổi giặc ngoại xâm ra khỏi đất nước, tinh thần quật cường ấy luôn luôn tồn tại trong tâm thức người Việt, tuy nó diễn ra âm thầm, nhưng luôn sẵn sàng bùng nổ bất cứ khi nào đất nước gặp nguy nan. Người Việt có thể thất bại, có thể phải chịu ách nô lệ, nhưng họ không bao giờ chấp nhận khuất phục dưới ách nô lệ đó, xuyên suốt lịch sử dân tộc, tinh thần đó luôn luôn được chứng minh như một chân lý vĩnh cửu.

Các ghi chép trong lịch sử Trung Quốc và Việt Nam đã cho chúng ta thấy được quy mô, tầm vóc và giá trị đặc biệt của khởi nghĩa Hai Bà Trưng trong lịch sử tộc Việt, Hai Bà Trưng đã giành chiến thắng, lập nước và giữ được nước trong ba năm, trước khi bị vó ngựa của người Hoa Hạ một lần nữa đánh bại, khiến đất Việt gần như chìm hẳn vào bóng tối nô lệ cho người Hoa Hạ trong khoảng gần 900 năm. Cuộc khởi nghĩa ấy có vai trò quan trọng, thể hiện rõ tinh thần không chịu khuất phục của người Việt, họ luôn luôn đứng dậy, phản kháng với tinh thần bất khuất, kiên cường, cương quyết giành lại độc lập cho dân tộc. Tinh thần ấy đã giúp người Việt còn là một dân tộc, một đất nước độc lập cho tới ngày nay, mặc dù không biết bao nhiêu lần đứng trước nguy cơ bị xóa sổ hoàn toàn trên bản đồ thế giới với những cuộc xâm lược của ngoại bang diễn ra liên tục trong lịch sử.

b. Trong các vùng tộc Việt:

Trong các vùng tộc Việt khác, chúng ta cũng có thể tìm thấy những ghi chép về các cuộc khởi nghĩa của các cư dân có nguồn gốc tộc Việt trong thời kỳ Tam Quốc.

Một trong những ví dụ tiêu biểu nhất cho sự chiến đấu quật cường của người Việt, đó là những người Việt trong vùng Dương Tử, được sử sách Trung Hoa gọi là Sơn Việt, được ghi chép nhiều nhất là từ thời Tam Quốc (220-280 SCN). Đây là những người Việt không chấp nhận sự cai trị của người Hán, đã lui về trên núi, tổ chức các cuộc chiến tranh chống lại các triều đình Hoa Hạ. Các nghiên cứu lịch sử đều đồng thuận cho rằng người Sơn Việt có địa bàn hoạt động trong các vùng núi xung quanh các tỉnh An Huy, Giang Tô, Chiết Giang, Giang Tây, Phúc Kiến của Trung Quốc ngày nay. [50]. Người Sơn Việt cư ngụ trên các vùng núi, thực hiện những cuộc chiến tranh du kích tiêu hao sinh lực các chính quyền Hoa Hạ, trong sách Tam Quốc Chí, Trần Thọ đã rất nhiều lần nhắc tới các cuộc khởi nghĩa, đánh phá của người Sơn Việt [51].

Tuy nhiên sau đó, vào thời Tam Quốc, dưới sự cai trị của nhà Ngô, thì Tôn Quyền đã sử dụng bạo lực để áp chế người Sơn Việt. Tuy thất bại, nhưng đây là một tia sáng rõ nét trong bức tranh phủ đầy một màu tối của cộng đồng tộc Việt, khi họ chìm dưới sự đô hộ của người Hoa Hạ. Những ánh lửa quật cường vẫn tiếp tục được người Việt duy trì trong một thời gian dài, tuy người Việt ở đồng bằng đã bị đồng hóa, nhưng cho tới tận ngày nay, vẫn còn nhiều dân tộc có nguồn gốc từ cộng đồng tộc Việt hiện vẫn là những dân tộc độc lập, không bị người Hán đồng hóa, giữ được những nét văn hóa cổ đại của dân tộc mình.

Bên cạnh người Sơn Việt, trong sách Tam Quốc Chí cũng đã nhiều lần nhắc tới những cuộc khởi nghĩa của người Việt ở các vùng.

Tam Quốc chí, Trần Chí – Bùi Chú chép: “Bấy giờ người man di ở Dương, Việt đa phần chưa quy thuận, nội nạn không ngừng, vì thế Quyền dùng lời lẽ nhún nhường dâng thư, xin tự gắng sửa đổi, nói “nếu như tội lỗi của ta thực sự khó tha, tất phải phế bỏ không được giữ tước phong, ta sẽ dâng trả đất đai và dân chúng, xin gửi thân ở Giao châu, để sống trọn tuổi thừa.” [51]

Tam Quốc chí, Trần Chí – Bùi Chú chép: “Người man di ở quận Vũ Lăng phản loạn, đánh lấy thành ấp, Quyền bèn dùng Cái lĩnh chức Thái thú.” [51]

Tam Quốc chí, Phong Tuấn – Lục Khải truyện chép: “Người man di ở Ngũ Khê tụ tập nhau phản loạn, Quyền ban Giả tiết cho Tuấn, sai đốc chư quân đánh dẹp chúng.” [51]

Như vậy, thì người Việt vùng nam Đông Á cũng không hề chấp nhận quy thuận dễ dàng theo người Hán, nhưng bằng trăm phương ngàn kế, họ đã có những hành động buộc các cư dân có nguồn gốc tộc Việt phải quy hàng, theo mình, từ đó đồng hóa và xóa sổ về ý thức dân tộc. Tuy nhiên, thì họ không thể làm điều đó với tất cả người Việt, trong vùng nam Đông Á hiện nay, vẫn còn rất nhiều dân tộc hiện đang là những dân tộc độc lập, giữ được những nét văn hóa cổ của tộc Việt, di truyền vẫn rất gần với người Việt và các dân tộc có nguồn gốc tộc Việt khác.

2. Sự trường tồn của ý thức Việt:

Ý thức Việt là một ý thức được người Việt tại các vùng lưu giữ một cách rất mạnh mẽ. Tiêu biểu và quan trọng nhất, đó là người Việt, hiện nay, người Việt tại Việt Nam vẫn lưu giữ tên gọi Việt trong tên dân tộc và cả tên đất nước, trong lịch sử thời Bắc thuộc, người Việt đã lưu giữ ý thức Việt xuyên suốt lịch sử, trong thời Bắc thuộc, ở giai đoạn độc lập ngắn ngủi, Triệu Quang Phục đã lấy hiệu là Triệu Việt Vương, tới khi giành lại được độc lập, ngay trong triều đại quân chủ đầu tiên, thì Đinh Tiên Hoàng đã lấy quốc hiệu là Đại Cồ Việt, khởi nguồn cho sự phục hưng của ý thức Việt. Người Việt là dân tộc duy nhất hiện nay còn độc lập vẫn giữ tên gọi Việt trong cả tên dân tộc và đất nước của mình, nhưng người Việt tại các vùng Chiết Giang, Quảng Đông cũng đã lưu truyền ý thức này, tuy họ không còn ý thức dân tộc độc lập, nhưng tên Việt vẫn hiện diện trên một số yếu tố địa lý, văn hóa, ngôn ngữ của họ, cho chúng ta thấy được sức sống rất mạnh mẽ và vai trò rất quan trọng của nó trong tâm thức các nhóm dân cư có nguồn gốc tộc Việt.

Tỉnh Chiết Giang 浙江 trước đây được gọi là tỉnh Việt 越, tới thời Minh – Thanh, thì tên gọi của vùng hạ lưu Dương Tử được thay đổi thành Chiết Giang, nhưng tỉnh Chiết Giang vẫn được xem là tỉnh Việt cho tới ít nhất thời nhà Thanh. Vùng đất Thiệu Hưng của Chiết Giang được gọi là 越州 Việt Châu. Kịch của vùng Chiết Giang được gọi là Việt kịch 越剧.

Vùng Quảng Đông, Quảng Tây cũng được gọi là 两粤, tiếng Quảng Đông cũng được gọi là Việt ngữ 粵語. Ban đầu, vùng này được chép dưới cái tên 南越, là nơi của người Lạc Việt ở 雒越 như ghi chép của Cựu đường thư. Nhưng tới thời Tùy Đường, thì chữ 粤 đã được sử dụng, có lẽ họ có mục đích phân tách về nguồn gốc thống nhất giữa người Việt tại Việt Nam với các nhóm dân có nguồn gốc từ cộng đồng tộc Việt. Tuy nhiên, thì việc người Quảng Đông vẫn nhận mình là Việt cho chúng ta thấy được ý thức Việt được lưu truyền rất mạnh.

Ý thức Việt đã vượt qua hơn 5000 năm lịch sử, trải qua rất nhiều chông gai và thử thách, nhưng không biến mất, mà vẫn tồn tại như một ý thức lâu bền trong các dân tộc có nguồn gốc tộc Việt. Người Việt tại Việt Nam đã lưu giữ ý thức Việt mạnh nhất, và cũng có vai trò quan trọng nhất, chính thống hơn so với người Hán gốc Việt tại các vùng Quảng Đông và Chiết Giang, nhưng việc người Hán tại các vùng vẫn nhận là Việt, cho thấy được sức sống của ý thức Việt là mạnh mẽ tới như thế nào.

VIII. SỰ XUYÊN TẠC TRONG NHẬN ĐỊNH VỀ CỘNG ĐỒNG TỘC VIỆT CỦA NGƯỜI HOA HẠ:

1. Sự bôi nhọ tộc Việt của người Hoa Hạ:

Bên cạnh những ghi chép khách quan về cộng đồng tộc Việt, thì không ít trong những ghi chép lịch sử của mình, người Hoa Hạ đã có những lời lẽ ác ý khi mô tả về người Việt, sử dụng câu chữ để biến người Việt thành một giống người dã man, không có văn minh. Những ghi chép như vậy không khó để thấy được trong các tài liệu lịch sử của người Hoa Hạ.

Trong sách Sử Ký của Tư Mã Thiên, phần Nam Việt Úy Đà liệt truyện, khi chép về bức thư tạ tội của Triệu Đà: “Vả lại phương Nam đất thấp, ẩm, dân man di ở vào giữa. Ở phía Đông đất Mân Việt chỉ vẻn vẹn nghìn người, cũng xưng hiệu là “vương”; ở phía Tây, nước Âu Lạc là nước trần truồng, cũng xưng là “vương”.” [39]

Hoặc như Thủy Kinh chú chép: “Hoặc người Di búi tóc dài, nói tiếng Man, ăn bằng miệng, uống bằng mũi, rạch mặt xăm mình, giống người Lang Hoang trần truồng.” [52]

Người Việt thời kỳ Hùng Vương đã có đầy đủ trang phục [53], họ cũng đã tạo ra vải từ rất sớm với những dấu tích ở văn hóa Hà Mẫu Độ và kế thừa ở văn hóa Lương Chử [54]. Nên Triệu Đà nói, hoặc Tư Mã Thiên nói rằng: “Âu Lạc là nước trần truồng”, hay Thủy Kinh chú chép rằng người Việt là “giống Lang Hoang trần truồng” hoàn toàn là một không đúng sự thực. Ngay chính các tài liệu lịch sử Trung Quốc cũng đã chép rõ rằng người Việt có trang phục (áo vạt trái) mà chúng tôi đã dẫn ra ở phần phong tục của tộc Việt, nhưng họ bỏ qua sự thật đó để viết khác đi nhằm mục đích bôi nhọ người Việt. Những “phong tục” mà Thủy Kinh chú đã chép về người Việt dù có ghi lại một số sự thật như xăm mình, bùi tóc, nhưng tựu chung đều có xu hướng bị bóp méo nhằm bôi nhọ người Việt.

Hậu Hán Thư, Nhâm Diên truyện chép: “Tục người Cửu Chân, lấy săn bắn làm nghiệp chính, không biết dùng trâu cày, dân phải mua thóc gạo từ Giao Chỉ, thường thiếu thốn khốn khổ. Diên bèn bảo cho đúc lấy các đồ nông khí, dạy cho khai khẩn. Vì vậy, đồng ruộng hằng năm đều được mở mang rộng rãi thêm, trăm họ sung túc. Lại thêm dân cư Lạc Việt không có lễ pháp giá thú, ai nấy đều chỉ theo ý dâm thích của mình, không có vợ đích nhất định, không biết đến tình cha con, đạo vợ chồng.” [55]

Hậu Hán Thư đã ngụy tạo nên những thông tin sai lệch về người Việt, mô tả người Việt giống như một tộc người hoang dã, sinh sống bầy đàn như dân thời thượng cổ, mặc dù họ biết đó không phải là sự thật, nhưng vẫn thực hiện nhằm một mục đích riêng trong những ghi chép của mình, chắc chắn họ biết được rằng người đời sau sử dụng những ghi chép của mình để tìm hiểu về lịch sử Việt, nó sẽ trực tiếp tác động tới nhận thức về nguồn gốc của người Việt, khiến người Việt không còn nhận diện được dân tộc mình từ đâu tới, không ý thức được những thành tựu văn minh mà dân tộc mình đã từng dựng xây nên trong quá khứ, hay rộng hơn, đó là sự ảnh hưởng căn cơ về tư tưởng, khiến cho lịch sử về cộng đồng tộc Việt chìm trong bóng tối, được xem như một cộng đồng dã man, không có văn minh và cũng không đáng để bận tâm, thực tế thì những ảnh hưởng đó đã thể hiện rất rõ cho tới tận ngày nay, khi hầu hết mọi người đều mặc định rằng người Việt là “những bộ tộc nguyên thủy”, không có văn minh, đúng như những gì mà các nhà viết sử Trung Hoa đã tính toán, cộng đồng này cũng không nhận được sự quan tâm thực sự của các nhà nghiên cứu của cả Việt Nam và trên thế giới. Trong thời kỳ Hùng Vương, người Việt vốn đã có một đời sống đề cao đạo lý, đức hạnh, có đời sống một vợ một chồng tiết nghĩa, có đạo hiếu, ở cả tầm gia đình lẫn tầm quốc gia [56], vì vậy, những ghi chép của Hậu Hán Thư là một sự bịa đặt, bôi nhọ có chủ đích về văn hóa của người Việt.

Tam quốc chí – Ngô thư – Tiết Tống truyện: “山川長遠習俗不齊言語同異重譯乃通民如禽獸長幼無別椎結徒跣貫頭左袵長吏之設雖有若無。自斯以來頗徙中國罪人雜居其間稍使學書粗知言語使驛往來觀見禮化。及後錫光為交阯任延為九真太守乃教其耕犂使之冠履為設媒官始知聘娶建立學斆導之經義。由此已降四百餘年頗有似類。…」” – “Sông núi xa xôi, tập tục không thuần, tiếng nói cùng khác, nhiều lần phiên dịch mới hiểu, dân như cầm thú, không phân biệt già trẻ, búi tóc, đi chân trần, quấn khăn quanh đầu, cài vạt áo bên trái, dù có đặt ra quan trưởng lại mà như không có. Từ đó đến nay, có dời người có tội từ Trung Quốc đến ở lẫn giữa chỗ ấy, dần dần sai học chữ, biết qua được tiếng nói, sứ giả qua trạm dịch qua lại, xem qua được lễ nghĩa. Kịp sau đó Tích Quang làm Thái thú Giao Chỉ, Nhâm Diên làm Thái thú Cửu Chân, bèn dạy dân cày bừa, sai phải đội mũ đi giày, đặt ra quan mai mối, bắt đầu biết lễ cưới gả, lại dựng nên trường học, dạy dân biết kinh nghĩa. Do đó đến nay đã hơn bốn trăm năm có phần giống với Trung Quốc…” [B]

Người Việt chính là hậu duệ trực tiếp của tộc người thuần hóa lúa nước đầu tiên trên thế giới, về dấu tích khảo cổ, lúa được thuần hóa đầu tiên ở vùng Dương Tử tại di chỉ Shangshan vào khoảng 10.000 năm trước [57], vùng Dương Tử là nơi hình thành nên tộc Việt, cộng đồng này được hình thành với cốt lõi là nền văn minh lúa nước, với thành phần cư dân quan trọng nhất là cư dân ngữ hệ Nam Á bản địa vùng Dương Tử [58], vì vậy, không cần phải nhờ tới người Hoa Hạ mà người Việt mới biết trồng lúa, nếu nói đúng bản chất lịch sử, thì cần phải nói ngược lại mới chính xác, bởi người Hoa Hạ có nguồn gốc từ vùng đất có cây kê làm cây lương thực chính, nếu bàn về việc ai học ai, thì nhiều cơ sở hơn để cho rằng họ đã tiếp nhận kỹ thuật canh tác lúa nước của người Việt phương Nam khi xâm chiếm các vùng đất của tộc Việt, chứ không phải theo hướng ngược lại.

Thủy Kinh chú chép: “Ở phía nam huyện Chu Ngô, có người Văn Lang, họ sống ngoài đồng, không có nhà cửa, ngủ trên cây, ăn thịt cá sống, thu hái cây cỏ thơm làm nghề nghiệp, trao đổi mua bán với người khác như dân thời thượng cổ vậy.” [59]

Trong chi tiết này chúng tôi có cảm giác tác giả Thủy Kinh Chú chủ ý nhắc tới Văn Lang, mô tả “người Văn Lang” như một bộ tộc hoang dã “sống như dân thời thượng cổ”, cách gán ghép tên gọi này đã bôi xấu hình ảnh quốc gia của người Việt, khiến người đọc hiểu nhầm về nước Văn Lang. Trong các ghi chép lịch sử, người Hoa Hạ cũng rất ít chép lại về tên này của quốc gia chung của cộng đồng tộc Việt, mặc dù họ biết nó có tồn tại, chỉ tới thời Tống thì thông tin về quốc gia này mới lần đầu tiên được chép trong lịch sử Trung Hoa, và thông tin về nó cũng rất sơ lược.

Thủy Kinh chú chép: “Những ngày trời trong gió lặng, nhìn ra xa thấy châu Chu Nhai, thấy nó lớn như một cái vựa thóc hình tròn. Từ Từ Văn đi thuyền ra đấy, gặp gió bắc kéo buồm lên, đi một ngày một đêm là tới. Chu vi quận ấy là hơn 2000 dặm, đường kính là 800 dặm. Nhân dân có khoảng hơn 10 vạn nhà, đều là những giống loài người khác lạ, xõa tóc, xăm mình, con gái phần nhiều tướng mạo đẹp, làn da trắng trẻo, tóc dài, tóc mai đẹp. Trai gái tụ tập với nhau như loài dê, loài chó, không chịu giáo hóa về đạo đức.” [60]

Tác giả sách Thủy Kinh chú sử dụng những từ có ý tứ nặng nề để chỉ người Việt, ví người Việt với thú vật: “trai gái tụ tập với nhau như loài dê, loài chó, không chịu giáo hóa về đạo đức“.

Trong nhiều ghi chép mà chúng tôi đã dẫn ở trên, có thể thấy người Hoa Hạ sẵn sàng bịa đặt, nói sai sự thực để mô tả và nhận xét về người Việt, qua những mô tả trong lịch sử Trung Hoa, có thể tưởng tượng người Việt là một giống người nguyên thủy, bằng câu chữ, họ đã biến người Việt thành một tộc người dã man, không có văn minh. Như chúng tôi đã phân tích, đây hẳn không phải một hành động ngẫu nhiên, từ việc bôi nhọ hình ảnh người Việt này, người Hoa Hạ tự biến mình thành một tộc người đi giáo hóa, khai sáng văn minh cho người Việt, biến cộng đồng tộc Việt thành những tộc người không có quốc gia, không có ý thức dân tộc, để họ có cơ sở để chiếm đoạt các vùng đất của tộc Việt một cách chính danh.

Thêm vào đó, qua sự mô tả người Việt, có lẽ chủ đích xa nhất của họ là muốn biến sự xâm lược của họ trở thành một hành động tiến đánh và chiếm đóng những vùng đất không người, của những bộ lạc hoang dã, không có nhà nước, không có chủ quyền. Những mưu tính của họ qua đây được thể hiện khá rõ ràng, và nó cũng đã có những ảnh hưởng rất rõ nét cho tới tận ngày nay, khi không ít người Việt đã công nhận Triệu Đà là triều đại chính thống đầu tiên của người Việt, vì cho rằng ông có công “thống nhất các bộ lạc Bách Việt”, lập nên triều đại đầu tiên của người Việt, khai hóa văn minh cho người Việt. Bên cạnh đó, thì cũng không ai bàn tới chủ quyền của cộng đồng tộc Việt, mà thường cho rằng người Hoa Hạ xâm chiếm vào các vùng đất vô chủ, nên mặc nhiên có quyền sở hữu với các vùng đất đó. Đây là những tư tưởng đã có ảnh hưởng rất lớn đối với việc nhận định về nguồn gốc dân tộc và chủ quyền, lãnh thổ của cộng đồng tộc Việt, khiến người Việt không dám nhận chủ quyền ở vùng đất đã từng là của mình.

Thực tế, người Việt đã tiến tới một trình độ văn minh rất cao trong quá trình tồn tại, với các văn hóa Lương Chử, Thạch Gia Hà, họ đã có những ảnh hưởng rộng lớn và sâu sắc tới các văn hóa và các triều đại của người Hoa Hạ [21], nhưng dường như, người Hoa Hạ đã “quên” mất những gì mà họ đã mượn của người Việt, viết những dòng sử sai sự thực để làm mờ nhòa đi sự thật. Bên cạnh việc làm cơ sở cho những cuộc xâm lược, thì việc người Hoa Hạ bôi nhọ người Việt trong những ghi chép của mình có lẽ còn có một ý định xa hơn là nhằm mục đích xóa dấu vết những thứ mà họ đã mượn của người Việt mà không nhắc tới nguồn gốc của chúng, biến chúng thành một di sản của nền văn hóa Trung Hoa, là sáng tạo của riêng dân tộc họ, cũng như cách ngày nay họ luôn cố gắng để chiếm đoạt những di sản của người Việt như áo dài, đàn bầu, nhã nhạc cung đình Huế vậy.

2. Có thực người Việt hay đánh nhau?

Trong một số ghi chép của người Hoa Hạ, họ cũng thường cho rằng người Việt hay đánh đấu nhau. Đây có lẽ là nguyên nhân mà người Việt thường tự nhận định rằng tộc Việt không có sự đoàn kết, mà còn hay thôn tính lẫn nhau.

Hán thư – Cao Đế kỉ (Hán – Ban Cố soạn): “十一年夏五月,詔曰:「粵人之俗,好相攻擊,前時秦徙中縣之民南方三郡,使與百粵雜處。會天下誅秦,南海尉它居南方長治之,甚有文理,中縣人以故不耗減,粵人相攻擊之俗益止,俱賴其力。今立它為南粵王。」使陸賈即授璽綬。它稽首稱臣。” – “Năm thứ mười một (năm 196 TCN), mùa hạ, tháng năm, hạ chiếu rằng: “Tục của người Việt là ưa đánh đấu nhau, thời trước nhà Tần dời dân Trung Quốc đến ở ba quận miền nam (Quế Lâm, Nam Hải, Tượng Quận), sai ở lẫn với người Bách Việt, kịp lúc thiên hạ diệt nhà Tần, quan Úy quận Nam Hải là (Triệu) Đà ở miền nam đứng đầu trị dân ấy, rất có văn lí, do đó người Trung Quốc không hao tổn, tục ưa đánh đấu nhau của người Việt càng giảm, đều nhờ vào sức ấy. Nay lập Đà làm vua nước Nam Việt.” Sai Lục Giả đến trao ấn thao, Đà cúi đầu xưng thần.” [B]

Tư Mã Thiên, Cấp Ảm liệt truyện chép. “Các nước ở Đông Việt đánh lẫn nhau, nhà vua sai Ảm đến xem. Ảm không đi đến nơi chỉ đi đến đất Ngô rồi trở về báo: – Người Việt đánh nhau, đó là cái tục của họ xưa nay vẫn thế, không đáng làm nhục đến sứ thần của thiên tử.” [39]

Nhận xét này đặt trong bối cảnh thực tế lịch sử, thì câu nhận xét này trở nên rất nghịch lý, bởi chính lịch sử được xem là “đặc sắc” của Trung Hoa, là đầy những cuộc nội chiến, chém giết lẫn nhau. Lịch sử của họ đặc biệt chính là vì những cuộc chiến tranh, mà trong đó chủ yếu là nội chiến, như thời Xuân Thu – Chiến Quốc, thời Tam Quốc, hay như thời hiện đại là nội chiến giữa Trung Hoa Dân Quốc và Cộng hòa nhân dân Trung Hoa. Một quốc gia với lịch sử đầy máu, sử dụng máu của chính đồng bào mình để tranh giành quyền lực, lại cho rằng người Việt hay đánh nhau thì quả thực là một điều nghịch lý.

Xét trong xuyên suốt lịch sử tồn tại của tộc Việt, thì cộng đồng tộc Việt có sự thống nhất cao, hầu như không có cuộc nội chiến nào đã diễn ra, tộc Việt chung sống hòa bình dưới sự quản lý thống nhất của họ Hồng Bàng và triều Hùng Vương, không có sự thay đổi chế độ trong suốt hơn 17 thế kỷ. Chỉ tới khi triều Hùng Vương suy yếu, Thục Phán đã nổi dậy giành ngôi, khi ấy, ông cũng đã kế thừa và lãnh đạo toàn bộ vùng đất Việt còn lại, đất nước cũng không diễn ra những cuộc phân tranh, nội chiến, cát cứ của các thế lực địa phương như các triều đại sau này. Những quốc gia được cho là Việt thường đánh nhau, như Sở, Ngô, Việt, Đông Âu, Mân Việt, Nam Việt thực ra lại chính là những quốc gia có nguồn gốc hoàng gia và quân đội là từ người Hoa Hạ, tầng lớp cai trị của các quốc gia này mới chính là những người tạo nên những cuộc chiến tranh xâm lược, đánh giết lẫn nhau, chứ không phải tộc Việt. Từ sự thật lịch sử đó, có thể nhận diện rõ ràng tộc người nào mới thật sự là hay đánh giết, tàn sát lẫn nhau. Việc họ cho rằng người Việt hay đánh nhau quả thực là không biết tự nhìn lại mình, mà chỉ biết cười chê người vậy.

Tuy nghịch lý là như vậy, nhưng những ghi chép không chính xác này lại khiến người Việt tin tưởng rằng tộc Việt là các dân tộc không liên quan gì tới nhau, thường xuyên đánh nhau, không có sự đoàn kết, mà không đủ khả năng để ý thức, đánh giá và nhìn nhận đúng bản chất của vấn đề trong thực tế lịch sử. Vậy mới thấy sức mạnh của câu chữ mà người Hoa Hạ đã sử dụng trong các ghi chép lịch sử của mình là như thế nào, họ đã nhận thức được đó là một công cụ quyền năng, sử dụng nó để biến đổi hoàn toàn sự thật lịch sử về tộc Việt, với quyền lực áp đảo dưới sức mạnh quân sự, chính trị, dưới những chủ thuyết, tư tưởng có sức ảnh hưởng lớn. Bằng những ghi chép lịch sử, họ đã đổi trắng thay đen lịch sử để có thể chiếm đoạt được những di sản, đất đai của tộc Việt một cách chính danh.

IX. KẾT LUẬN:

Thông qua những khảo cứu của chúng tôi, chúng ta đã có một bức tranh khá toàn cảnh về sự hình thành, tiến trình lịch sử của cộng đồng tộc Việt. Cộng đồng tộc Việt hình thành từ một tiến trình phát triển liên tục và hoàn toàn độc lập với người Hoa Hạ, họ đã hình thành tổ chức nhà nước và ý thức dân tộc từ sớm ở văn hóa Lương Chử, sau đó kế thừa ở văn hóa Thạch Gia Hà. Tới thời điểm 4000 năm, tộc Việt di tản ra vùng phía Nam do hạn hán trong vùng Dương Tử, nhưng tộc Việt vẫn tiếp tục phát triển trong một quốc gia chung, đó là quốc gia của các vị vua Hùng, mà cả các ghi chép của Trung Quốc và Việt Nam đều công nhận sự tồn tại của quốc gia này.

Cộng đồng tộc Việt có chung một nguồn gốc, có chung một nền văn hóa, có chung một quốc gia, nhưng dưới những bước chân xâm lược của người Hoa Hạ ở các triều đại Thương – Sở – Tần – Hán, cộng đồng tộc Việt dần tan rã và phân mảnh thành nhiều quốc gia, nhiều nhóm dân cư độc lập. Lịch sử luôn có sự biến đổi, nhưng ý thức Việt vẫn mãi được người Việt lưu truyền và giữ gìn, người Việt ngày nay mang trên mình trọng trách giữ gìn và khôi phục những truyền thống và lịch sử của cộng đồng tộc Việt.

Việc có được những hiểu biết khách quan và khoa học hơn về lịch sử của cộng đồng tộc Việt cũng sẽ giúp người Việt nhận diện chính xác hơn về nguồn gốc dân tộc mình, biết dân tộc mình từ đâu tới, biết những người anh em mình là ai, để từ đó, hướng tới một tương lai mới với những trang sử mới rực rỡ hơn, bắt đầu từ việc phát huy ý thức Việt, khôi phục những nét văn hóa cổ đại, và tái đoàn kết các dân tộc có nguồn gốc tộc Việt, tạo nên nội lực cho đất nước trong kỷ nguyên mới.

Lang Linh

Xin chân thành cảm ơn (rất nhiều) những bản dịch và khảo cứu của Tích Dã đã được chúng tôi sử dụng để viết bài viết này.


Tài liệu tham khảo:

[1] Lang Linh (2021), Bức tranh di truyền về nguồn gốc của người Việt
https://luocsutocviet.com/2021/08/19/550-buc-tranh-di-truyen-ve-nguon-goc-cua-nguoi-viet/

[2] Lang Linh (2020), Khảo cứu về nguồn gốc dân tộc Việt
https://luocsutocviet.com/2020/06/04/497-khao-cuu-ve-nguon-goc-dan-toc-viet/

[3] Lang Linh (2021), Phân tích về di truyền của cộng đồng tộc Việt
https://luocsutocviet.com/2021/10/12/556-phan-tich-ve-di-truyen-cua-cong-dong-toc-viet/

[4] Wang, Chuan-Chao, and Hui Li. “Inferring human history in East Asia from Y chromosomes.” Investigative genetics vol. 4,1 11. 3 Jun. 2013, doi:10.1186/2041-2223-4-11

[5] Wang, CC., Yeh, HY., Popov, A.N. et al. Genomic insights into the formation of human populations in East Asia. Nature 591, 413–419 (2021). https://doi.org/10.1038/s41586-021-03336-2

[6] Sun, Jin & Li, Yingxiang & Ma, Pengcheng & Yan, Shi & Cheng, Hui-Zhen & Fan, Zhi-Quan & Deng, Xiao-Hua & Ru, Kai & Wang, Chuan-Chao & Chen, Gang & Wei, Ryan. (2021). Shared paternal ancestry of Han, Tai-Kadai-speaking, and Austronesian-speaking populations as revealed by the high resolution phylogeny of O1a-M119 and distribution of its sub-lineages within China. American journal of physical anthropology. 174. 10.1002/ajpa.24240.
https://www.researchgate.net/publication/349144829_Shared_paternal_ancestry_of_Han_Tai-Kadai-speaking_and_Austronesian-speaking_populations_as_revealed_by_the_high_resolution_phylogeny_of_O1a-M119_and_distribution_of_its_sub-lineages_within_China

[7] Ko AM, Chen CY, Fu Q, et al. Early Austronesians: into and out of Taiwan. Am J Hum Genet. 2014;94(3):426-436. doi:10.1016/j.ajhg.2014.02.003

[8] Colin Renfrew, Bin Liu (2018). The emergence of complex society in China: the case of Liangzhu. Antiquity;92(364):975-90.
https://www.cambridge.org/core/journals/antiquity/article/abs/emergence-of-complex-society-in-china-the-case-of-liangzhu/0D4FD61E9460755CED69047FAD7FA2AD

[9] Tống Kiến 宋建 (2017). Liangzhu – một quốc gia cổ đại phức tạp bị chi phối bởi thần quyền 良渚——神权主导的复合型古国. 东南文化;(1):6-15.

[10] Zhang, Chi; Hung, Hsiao-chun (2008), “The Neolithic of Southern China-Origin, Development, and Dispersal”, Asian Perspectives, 47 (2): 299–329, doi:10.1353/asi.0.0004

[11] Li Liu, Xingcan Chen (2012). The archaeology of China: from the late Paleolithic to the early Bronze Age: Cambridge University Press.

[12] Chi Hung 洪曉純 Zhang, Hsiao-Chun (2009). The Neolithic of Southern China–Origin, Development, and Dispersal. Asian Perspectives;47.

[13] Đổng Sở Bình 董楚平; “Phương Việt hội thi” “方钺会矢” – Một trong những diễn giải về các nhân vật Lương Chử 良渚文字释读之一[J];东南文化;2001年03期.

[14] Richard Sears. Các kiểu chữ Việt 越. https://hanziyuan.net/#越.

[15] Đội khảo cổ Thạch Gia Hà 石家河考古队 (1999). Tiêu Gia Ốc Tích 肖家屋脊: Nhà xuất bản Văn Vật 文物出版社.

[16] Nguyễn Văn Huyên, Vinh Hoàng (1975). Những trống đồng Đông Sơn đã phát hiện ở Việt Nam. Hà Nội.

[17] LaPolla FAHA, Randy. (2010). Language Contact and Language Change in the History of the Sinitic Languages. Procedia – Social and Behavioral Sciences. 2. 6858-6868. 10.1016/j.sbspro.2010.05.036.

[18] Lee H-YH and Clontz J . 2012. Reviewing the prehistoric linguistic relationships of the Tai—Kadai language family and its putative linguistic affiliations: a meta—analysis study and abbreviation edition Abstract. Journal of Liberal Arts Prince of Songkla University 4(1):20–38.

[19] Delancey, Scott. “The origins of Sinitic.” (2013).

[20] Lang Linh (2021), Luận điệu “lãng tử hồi đầu” và những chân lý của lịch sử
https://luocsutocviet.com/2021/10/10/554-luan-dieu-lang-tu-hoi-dau-va-nhung-chan-ly-cua-lich-su/

[21] Lang Linh (2021), Những ảnh hưởng của văn hóa tộc Việt tới văn hóa Hoa Hạ https://luocsutocviet.com/2021/07/03/544-nhung-anh-huong-cua-van-hoa-toc-viet-toi-van-hoa-hoa-ha/

[22] Ferlus, Michel (2013). “The sexagesimal cycle, from China to Southeast Asia”. 23rd Annual Conference of the Southeast Asian Linguistics Society, Bangkok, Thailand.
https://halshs.archives-ouvertes.fr/halshs-00922842/document

[23] Nguyễn Cung Thông, Loạt bài nghiên cứu: “Nguồn gốc Việt (Nam) của 12 con giáp)”.
Full PDF: https://drive.google.com/file/d/1PTmCRbHEymW9BDodwalqfFTYLR9HVHAv/view?usp=sharing

[24] Ngô Sĩ Liên, Đại Việt sử ký toàn thư, Quyển I – Kỷ Hồng Bàng thị, Nhà xuất bản Khoa Học Xã Hội, 1993.

[25] Trần Thế Pháp, Lĩnh Nam chích quái 嶺南摭怪, bản dịch Lê Hữu Mục, nhà sách Khai Trí (1960).

[26] Trần Kinh Hòa (Cheng Ching-Ho), 1960, Khảo cứu về danh xưng Giao Chỉ, tạp chí Đại học Huế.

[27] Li, Bing & Zhu, Cheng & Wu, Li & Li, Feng & Sun, Wei & Wang, Xiaocui & Liu, Hui & Meng, Huaping & Wu, Di. (2013). Relationship between environmental change and human activities in the period of the Shijiahe culture, Tanjialing site, Jianghan Plain, China. Quaternary International. 308. 45-52. 10.1016/j.quaint.2013.05.041.

[28] McColl H, Racimo F, Vinner L, Demeter F, Gakuhari T, Moreno-Mayar JV, Van Driem G, Wilken UG, Seguin-Orlando A, De la Fuente Castro C, Wasef S (2018). The prehistoric peopling of Southeast Asia. Science. 361(6397):88-92.
https://science.sciencemag.org/content/361/6397/88

[29] Lipson M, Cheronet O, Mallick S, Rohland N, Oxenham M, Pietrusewsky M, Pryce TO, Willis A, Matsumura H, Buckley H, Domett K, Nguyen GH, Trinh HH, Kyaw AA, Win TT, Pradier B, Broomandkhoshbacht N, Candilio F, Changmai P, Fernandes D, Ferry M, Gamarra B, Harney E, Kampuansai J, Kutanan W, Michel M, Novak M, Oppenheimer J, Sirak K, Stewardson K, Zhang Z, Flegontov P, Pinhasi R, Reich D. Ancient genomes document multiple waves of migration in Southeast Asian prehistory. Science. 2018 Jul 6;361(6397):92-95. doi: 10.1126/science.aat3188. Epub 2018 May 17. PMID: 29773666; PMCID: PMC6476732.
https://science.sciencemag.org/content/361/6397/92

[30] Tích Dã, Thời đại Văn Lang – Âu Lạc trong lịch sử Việt Nam: Từ truyện ký đến tín sử
https://nghiencuulichsu.com/2019/05/10/thoi-da%cc%a3i-van-lang-au-la%cc%a3c-trong-li%cc%a3ch-su%cc%89-vie%cc%a3t-nam-tu-truye%cc%a3n-ky-den-tin-su%cc%89/

[31] Lang Linh (2021), Hùng Vương và Lạc Vương: từ các ghi chép lịch sử
https://luocsutocviet.com/2021/10/13/559-hung-vuong-va-lac-vuong-tu-cac-ghi-chep-lich-su/

[32] Phan Anh Dũng, Khảo sát tên gọi Văn Lang trên cơ sở ngữ âm lịch sử
http://vanhoanghean.com.vn/component/k2/111-goc-nhin-van-hoa-2/13730-khao-sat-ten-goi-van-lang-tren-co-so-ngu-am-lich-su

[33] Loofs-Wissowa H (1991). Dongson drums: instruments of Shamanism or regalia?. Arts asiatiques, p.39-49. Doi: 10.3406/arasi.1991.1300
https://www.researchgate.net/publication/250235416_Dongson_Drums_Instruments_of_Shamanism_or_Regalia

[34] Higham C (2014). Early mainland Southeast Asia: from first humans to Angkor. River Books, p.200.

[35] Lang Linh (2021), Nguồn gốc và sự ảnh hưởng của văn minh Đông Sơn
https://luocsutocviet.com/2021/07/03/543-nguon-goc-va-su-anh-huong-cua-van-minh-dong-son/

[36] Phan Anh Dũng, Tên gọi Việt Lạc (Lạc Việt) có từ trước đời Thành Thanh
http://fanzung.com/?p=2213

[37] Phan Anh Dũng, Về phạm vi cư trú của người Lạc Việt
http://fanzung.com/?p=2379

[38] Lang Linh (2021), Khảo sát một số vấn đề địa lý thời Bắc thuộc
https://luocsutocviet.com/2021/05/03/527-khao-sat-mot-so-van-de-dia-ly-thoi-bac-thuoc/

[39] Sử ký Tư Mã Thiên, Tư Mã Thiên (Phan Ngọc dịch), NXB Văn Học, 2003.

[40] Tư Mã Thiên, Sử ký III – Thế Gia, Phạm Vân Ánh dịch, Nhà xuất bản Văn học. 2020.

[41] Lịch Đạo Nguyên, Thủy Kinh Chú Sớ, Quyển XXXVI, trang 394, Nguyễn Bá Mão dịch, Nhà xuất bản Thuận Hóa, 2005.

[42] Lang Linh (2021), Sở, Ngô, Việt có phải tộc Việt không?
https://luocsutocviet.com/2021/03/19/513-so-ngo-viet-co-phai-toc-viet-khong/

[43] Tư Mã Thiên, Sử ký – Liệt Truyện (Quyển thượng), Phạm Vân Ánh dịch, Nhà xuất bản Văn học. 2016.

[44] Lăng Thuần Thanh (Ling Shun Sheng, 凌純聲), “Ký bản hiệu nhị đồng cổ kiêm luận đồng cổ đích khởi nguyên cập kỳ phân bố” 計本校二銅鼓兼論銅鼓的起源及其分佈. Đài Loan Đại học Văn Sử Triết học bảo, kỳ thứ nhất, 1950.

[45] Tư Mã Thiên, Sử ký – Liệt Truyện (Quyển hạ), Phạm Vân Ánh dịch, Nhà xuất bản Văn học. 2017.

[46] Lưu An (đời Hán), Hoài Nam Tử, Nhân gian luận. https://ctext.org/huainanzi/ren-xian-xun

[47] Trần Việt Bắc (2007), Giao Chỉ và Tượng Quận
https://nghiencuulichsu.com/2019/01/17/giao-chi-va-tuong-quan/

[48] Tư Mã Thiên, Sử ký – Bản kỷ, Trần Quang Đức dịch, Nhà xuất bản Văn học. 2014.

[49] Hậu Hán Thư, Nam Man truyện, dẫn lại từ An Nam truyện, dịch bởi Châu Hải Đường, Nhà xuất bản Hội nhà văn, 2018 (tái bản 2021).

[50] Jian Bozan, The Outline of Chinese History, Peking University Press (2006)

[51] Trần Thọ, Tam Quốc chí, Bùi Thông (biên dịch). Nhà xuất bản Văn học, 2016.

[52] Lịch Đạo Nguyên, quyển XXXVI. Thủy Kinh Chú Sớ, Nguyễn Bá Mão dịch, Nhà xuất bản Thuận Hóa, 2005, tr. 381.

[53] Hậu Hán Thư, Nhâm Diên truyện, dẫn lại từ An Nam truyện, dịch bởi Châu Hải Đường, Nhà xuất bản Hội nhà văn, 2018 (tái bản 2021).

[54] Lang Linh (2018) Khảo cứu về trang phục thời kỳ Hùng Vương.
https://luocsutocviet.com/2018/01/07/053-khao-cuu-ve-trang-phuc-thoi-ky-hung-vuong/

[55] Laura Geggel, Earliest Evidence of Pattern Looms Discovered in China
https://www.seeker.com/culture/archaeology/earliest-evidence-of-pattern-looms-discovered-in-china

[56] Lang Linh (2021), Các truyện cổ và đời sống người Việt thời Hùng Vương.
https://luocsutocviet.com/2021/10/18/563-cac-truyen-co-va-doi-song-nguoi-viet-thoi-hung-vuong/

[57] Zheng, Yunfei & Jiang, L.-P. (2007). Remains of Ancient Rice Unearthed from the Shangshan Site and Their Significance. Chinese Archaeology. 9. 159-163. 10.1515/CHAR.2009.9.1.159.

[58] Lang Linh (2021), Ngữ hệ Nam Á và nền văn minh sông Dương Tử.
https://luocsutocviet.com/2021/09/28/552-ngu-he-nam-a-va-nen-van-minh-song-duong-tu/

[59] Lịch Đạo Nguyên, quyển XXXVI. Thủy Kinh Chú Sớ, Nguyễn Bá Mão dịch, Nhà xuất bản Thuận Hóa, 2005, tr. 373.

[60] Lịch Đạo Nguyên, quyển XXXVI. Thủy Kinh Chú Sớ, Nguyễn Bá Mão dịch, Nhà xuất bản Thuận Hóa, 2005, tr. 393.


Chú thích:

[A] Bản dịch của Quốc Bảo.

[B] Các tư liệu và bản dịch này là của dịch giả Tích Dã.

Bình luận về bài viết này

Trang web này sử dụng Akismet để lọc thư rác. Tìm hiểu cách xử lý bình luận của bạn.