516. 🌟 Những biểu tượng quyền lực trong thần thoại của người Việt

I. NHỮNG BIỂU TƯỢNG QUYỀN LỰC TIÊU BIỂU TRONG THẦN THOẠI NGƯỜI VIỆT

Trong tính hiện thực của nó – như C. Mác quan niệm, bản chất của con người là tổng hoà các mối quan hệ xã hội nên sự phức tạp của quyền lực trong xã hội loài người xuất phát từ chính bản chất của con người. Thực ra, quyền lực là cái phục vụ cho người ta để thoả mãn những nhu cầu nhất định. Giữa hai loại nhu cầu của con người thì nhu cầu tự nhiên mang tính bản năng là cái có trước, còn nhu cầu mang tính xã hội sẽ lớn dần theo sự trưởng thành của con người. Vì vậy, quyền lực bản thân nó ban đầu mang tính tự nhiên, được hình thành từ những bản năng mang tính sinh vật trong quá trình đấu tranh để sinh tồn và phát triển. Sau này, do nhu cầu của việc quản lý và kiểm soát các hoạt động chung để phối hợp các thành viên trong xã hội với nhau mà quyền lực tiếp tục nảy sinh theo những cách khác nhau. Và đối với quyền lực trong thần thoại thì nó chính là quyền lực mang tính bản năng. Nếu cho rằng thần thoại vừa là nghệ thuật, vừa không phải là nghệ thuật thì quyền lực trong thời kì buổi ban đầu của nó cũng ra đời với tâm thế như vậy. Hay nói cách khác, biểu tượng quyền lực trong thần thoại cũng là quyền lực, quyền năng không tự giác, vô ý thức.

Như vậy, khi chúng tôi đề cập đến vấn đề quyền lực trong thần thoại -tuy là sự ấu trĩ, ngây thơ hồn nhiên của người xưa nhưng chưa hẳn nó là vô tác dụng đối với các thời kì với các thể loại khác sau này mà hơn nữa nó còn có phần nào mang bóng dáng của quyền lực chính trị chi phối cá nhân cũng như xã hội thời nay. Nhưng tựu chung với thần thoại, quyền lực thuộc về tự nhiên, do các thần linh nắm giữ.

Đúng vậy, thần thoại chính là hình thức sáng tác của con người từ thời xa xưa, nó thể hiện ý thức muốn tìm hiểu vũ trụ, lí giải vũ trụ và chinh phục thế giới tự nhiên của loài người. Và thông thường mỗi quyền lực tự nhiên trên lại được biểu trưng qua một số biểu tượng (mã) khác nhau mà nếu tìm hiểu những quyền lực tự nhiên đó thì không thể không nhìn nhận các mã của nó. Vì vậy, để lí giải sâu hơn quyền năng, quyền lực tuyệt đối ta thấy xuất hiện ở trong thần thoại, chúng ta sẽ đi giải mã một số biểu tượng tự nhiên tiêu biểu. Từ đó, ta có thêm cơ sở để thể hiện nó một cách sâu sắc hơn. Không chỉ vậy, hầu như thần thoại của tất cả các dân tộc – đặc biệt là thần thoại người Việt đều phản ánh tín ngưỡng thờ nhiên thần. Nhiên thần có thể là một vị thần được tạo ra bởi trí tưởng tượng nguyên thủy nghĩa là hình ảnh vị thần ấy vừa mang những đặc điểm của con người vừa mang những đặc điểm của thiên nhiên hoang dã. Người xưa tin rằng bất kì sự vật nào có mặt trên thế gian đều do những vị thần tạo nên. 

Công việc hằng ngày của các thần cũng giống như sự biến đổi của các hiện tượng tự nhiên. Tính tình, hành động của họ chính là sự giận dữ hoặc dung hòa với tự nhiên. Con người từ thủa khai thiên lập địa sống gần như phụ thuộc vào thiên nhiên. Một tác động nhỏ của thiên nhiên cũng mang lại những tai họa khôn lường đối với con người. Thiên nhiên, vũ trụ đối với con người to lớn và bí mật vô cùng. Họ không thể nào hiểu nổi tại sao lại có các hiện tượng như mưa, gió, sấm chớp,…những hiện tượng đem lại những tai họa khủng khiếp cho mình và đồng loại. Bằng sự hiểu biết non nớt, thô sơ, họ cho những tai họa đó là do thần giáng xuống. Chính vì quan niệm như vậy nên diện mạo của thần hết sức khủng khiếp. Điều đáng sợ ấy dẫn đến việc họ phải thờ cúng thần linh, những mong thần linh không gây ra tai họa cho cuộc sống của họ. Đó là cơ sở để họ thờ cúng ác thần. 

Bên cạnh những thần gây tai họa khủng khiếp cho con người, có những hiện tượng thiên nhiên luôn giúp cho cuộc sống của con người thuận lợi (mặt trời, đất đai…). Con người luôn muốn có các điều kiện thiên nhiên thuận lợi, do đó họ thờ cúng các thần thiện để phù trợ cho mình (từ đó mà có các tục lệ cúng cơm mới, cúng thổ địa…). Việc thờ cúng ấy xuất phát từ tín ngưỡng nguyên thủy, mặc dù xã hội nguyên thủy đã đi vào dĩ vãng nhưng tín ngưỡng ấy vẫn tồn tại, chứng tỏ niềm tin vào thần thánh vẫn có sức mạnh rất to lớn.

Để thấy được cách thức thể hiện quyền năng ở các vị thần khác nhau, sự cai quản giang sơn riêng của mình thì mỗi vị thần đều có quyền lực riêng. Và giữa quyền lực của các vị thần trong thần thoại thì có mối quan hệ ra sao với cuộc sống thực tại, chúng tôi sẽ lần lượt lí giải rõ hơn trong các biểu tượng quyền lực tiêu biểu dưới đây.

1.1. Biểu tượng lửa

Lịch sử loài người đã bước một bước tiến dài trên con đường phát triển và tiến hoá khi con người phát hiện ra lửa và biết sử dụng lửa. Càng ngày, lửa càng thâm nhập vào đời sống con người, trước hết bởi những ý nghĩa vô cùng thiết thực trong đời sống vật chất: lửa có thể đốt cháy, lửa có thể dùng để làm chín thức ăn, có thể dùng để soi sáng, để sưởi ấm, giúp con người tồn tại suốt hàng ngàn năm qua. Bên cạnh đó, cũng giống như người Hy Lạp cổ đại tôn sùng lửa giống như một quyền lực tự nhiên tối cao thì trong thần thoại người Việt cũng vậy, loài người dần dần còn tri nhận nó như biểu tượng quyền lực chi phối đời sống tinh thần của con người.

1.1.1.Biểu tượng lửa trong văn hóa nhân loại

Trong Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới của Jean Chevalier và Alain Gheerbrant, biểu tượng Lửa được giải thích với những ý nghĩa chính như: lửa – bản thể, lửa – thần thánh, lửa – tẩy uế và tái sinh, lửa – hủy diệt, lửa – giác ngộ, lửa – phương tiện vận chuyển, lửa – giới tính [21. 545].

* Lửa – bản thể: Ý nghĩa bản thể lửa trong văn hóa nhân loại được tri nhận và lí giải tương đối phong phú. Theo giáo thuyết Hindu, những dạng lửa của thế giới trần gian là: lửa thông thường, lửa sấm sét và mặt trời. Ngoài ra còn có hai dạng lửa khác: lửa xuyên thấu (hoặc lửa hấp thụ) và lửa hủy diệt. Theo Kinh Dịch, lửa ứng với phương Nam, màu đỏ, mùa hè, trái tim,… 

*Lửa – thần thánh: Ý nghĩa siêu nhiên của lửa trải rộng từ những linh hồn lang thang (ma trơi, đèn lồng Viễn Đông) đến anh linh thần thánh (Brahma với lửa là một). Nhiều nền văn hóa trên thế giới coi lửa là một vị thần có sức mạnh siêu nhiên. Trong các tôn giáo Ariăng ở châu Á và Kitô giáo, lửa là vị thần sống và tư duy.

*Lửa – tẩy uế và tái sinh: Ý nghĩa tẩy uế của biểu tượng lửa thường gắn liền với sự tái sinh. Theo một số truyền thuyết, chúa Ki tô (và các thánh) tái sinh cơ thể bằng cách đi qua lò lửa của xưởng rèn. Những người theo Đạo giáo bước vào lửa để tự giải phóng khỏi thân phận mà con người phải chịu đựng. Họ bước vào lửa mà không bị thiêu cháy. Trong Popol – vul, hai Anh hùng song sinh, hai vị thần ngô, đã chết trên giàn thiêu bởi kẻ thù, không có gì để tự vệ rồi sau đó tái sinh, hóa thân thành những đọt ngô xanh. Các cổ thư của người Ailen nhắc đến ngày hội Beltaines. Vào ngày 1 – 5, khởi đầu mùa hè, các giáo sĩ đốt những đống lửa cho gia súc đi qua đó để phòng ngừa các bệnh dịch.

*Lửa – hủy diệt: Ý nghĩa hủy diệt của biểu tượng lửa thể hiện: nó làm tối và chết ngạt bởi khói; nó đốt cháy, tàn phá, thiêu hủy: lửa của những dục vọng, của sự trừng phạt, của chiến tranh. Và theo đó, lửa trong tay ma quỷ, trở thành công cụ của quỷ.

*Lửa- giác ngộ: Lửa bên trong, lửa là tri thức xuyên suốt, là sự giác ngộ, là sự hủy bỏ cái vỏ bọc ngoài. Theo sự giải thích phân tâm học của Paul Diel, lửa mặt đất tượng trưng cho trí khôn, nghĩa là ý thức, với tất cả tính hai chiều đối nghịch của nó: ngọn lửa bốc lên trời thể hiện khí thế hướng tới sự thăng hoa tinh thần; ngọn lửa chao đảo biểu thị trí khôn, tinh thần sao nhãng.

*Lửa – phương tiện vận chuyển: Một số nghi lễ hỏa táng có nguồn gốc ở sự chấp nhận lửa như là một phương tiện vận chuyển, hay là sứ giả, từ thế giới người sống sang thế giới người chết. Trong nghi lễ tang ma của nhiều dân tộc trên thế giới, người ta đặt phần thức ăn dành cho người chết vào đống lửa trên đầu quan tài, ngọn lửa có nhiệm vụ chuyển đồ cúng đó cho người chết.

*Lửa – giới tính: Ý nghĩa giới tính của lửa liên hệ một cách phổ biến với kĩ thuật đầu tiên thu được lửa do cọ xát bằng cách lui-tới, hình ảnh của hành động tính giao. Mircéa Eliade nhận xét: Lửa thu được bằng cọ xát được như là kết quả (con cái) của sự chung đụng giới tính.

Phần trình bày trên có ý nghĩa tạo ra sự đối chiếu so sánh khi chúng tôi trình bày dưới đây về biểu tượng quyền lực lửa trong thần thoại người Việt cũng như sự chi phối của nó với đời sống văn hóa Việt. Nó sẽ cho thấy những nét chung và nét riêng, hay nói cách khác tính nhân loại và tính dân tộc của biểu tượng lửa, xét từ góc độ văn hóa.

1.1.2. Biểu tượng lửa trong thần thoại người Việt

Lửa – bản thể, thần thánh

Ý nghĩa bản thể lửa trong văn hóa nhân loại được tri nhận và lí giải tương đối phong phú. Theo giáo thuyết Hindu, những dạng lửa của thế giới trần gian là: lửa thông thường, lửa sấm sét và mặt trời. Ngoài ra còn có hai dạng lửa khác: lửa xuyên thấu (hoặc lửa hấp thụ) và lửa hủy diệt. Lửa vốn là một hiện tượng của tự nhiên, sau đó được con người phát hiện và sử dụng, nó đóng vai trò quan trọng trong tiến trình phát triển của nhân loại và dần dần trở thành một biểu tượng quan trọng có tính phổ biến trong văn hóa loài người. Đây là một phần quan trọng trong đời sống văn hóa của con người từ Sơ kỳ Đồ đá cũ, khi họ biết dùng lửa để nướng chín thức ăn, sưởi ấm và xua đuổi thú dữ. Các dấu vết của lửa đã được tìm thấy tại Gesher Benot Ya’aqov, Israel cách ngày nay khoảng 790.000 năm [8. 725].

Trong tư tưởng của phương Đông và phương Tây, lửa là một trong những yếu tố cơ bản tạo nên sự sống và được “nhân hóa” trong diện mạo con người nhưng mang đặc điểm hình dạng của lửa. Trong thần thoại Hy Lạp, thần Lửa Hephaistos được miêu tả là người đàn ông bị thọt chân – đó chính là hình ảnh chập chờn, bập bùng của ngọn lửa. Trong thần thoại Ấn Độ, thần Lửa Agni rất được tôn sùng, với hình dáng bảy đầu, bảy đùi, bảy tay, bảy lưỡi – đó là hình ảnh ngọn lửa trong hiện thực. Không giống với thần thoại Hy Lạp, Ấn Độ, Thần Lửa trong thần thoại người Việt được miêu tả là một bà già mặt mũi hung dữ. Người ta thường gọi là bà Hỏa – đó chính là hình ảnh của những ngọn lửa đang bùng cháy. Bên cạnh đó, hình ảnh trên cũng được khắc họa rõ nét trong câu chuyện Nữ thần Lửa cũng là một bà già rất khô khan và hung dữ. Có thể nói, ngay trong ngoại hình của thần ta cũng phần nào thấy được sức mạnh cũng như tầm ảnh hưởng to lớn của thần trong thiên nhiên cũng như đối với văn hóa nhân loại sau này. Vì vậy, “Lửa là một bản thể xã hội hơn là một bản thể tự nhiên” (Bachelard). Cũng như nhiều dân tộc trên thế giới, ở Việt Nam cũng có tục thờ thần lửa, nó bắt nguồn từ văn hóa sùng bái lửa. Hay nói cách khác, lửa chính là thần thánh có sức mạnh siêu nhiên. 

Quyền lực của thần lửa cũng vô cùng đặc biệt, câu chuyện Thần Lửa trong thần thoại người Việt nói về quyền năng của thần như sau: thần chuyên giữ một thứ lửa rất màu nhiệm có thể đặt nồi không mà nấu đủ ra thức ăn ngon lành [18. 47]. Nhưng đây là thứ lửa không phải là để dùng cho hạ giới. Quyền lực này không chỉ đề cập trong truyện Thần Lửa mà trong thần thoại Nữ thần Lửa quyền năng này cũng được nhắc đến như một sự thiêng liêng. Thứ lửa màu nhiệm này cho ta thấy khả năng mang đến những điều tốt lành cho con người. Mặc dù hạ giới cũng biết đến nhưng chưa ai có thể lấy được ngọn lửa thiêng này vì bà có một thứ bảo bối dùng làm vũ khí luôn luôn ngậm trong miệng. 

Nói về vai trò của lửa đối với văn hóa tâm linh con người thì thần thoại Hy Lạp cho rằng người cha của lửa là Prômêtê. Trước kia, ngọn lửa thiêng liêng chỉ dành cho thần thánh. Nhưng vì thương loài người nên Prômêtê đã ăn cắp lửa của thần linh đem xuống trần gian cho con người. Thần thoại người Việt với câu chuyện Thần Lửa cũng phản ánh điều này nhưng khác về cách thức thực hiện. Người ta kể chuyện ngày xưa có một ông lão đi vào trong rừng sâu bỗng bắt gặp một bếp lửa của bà thần lúc đó đang đi đâu vắng. Ông ta mừng rỡ bèn đặt một ống nứa không đặt lên bếp lửa. Chỉ trong một chốc, ống nứa tự nhiên thấy đầy cơm chín lại có cả thịt cá. Ông bèn đổ ra lá ăn một bụng no nê rồi ngủ luôn tại đó. Khi ông lão ngủ say thì bà lão bất chợt trở về. Thấy có người lạ khám phá ra thứ lửa màu nhiệm, bà bèn rút bầu nước đem theo người ra tưới tắt bếp lửa rồi đi mất. Đó chính là ngọn lửa thiêng mà con người không được dùng. Khi ông lão tỉnh dậy thấy tắt mất bếp, nhưng ông lão cố tìm trong đống tro tàn ra xem thì may thay vẫn còn một tí than đỏ. Ông mừng rỡ bỏ vào khố bọc lại mang về nhà nhen nhóm nó lên. Từ đó, ngày nào cũng có cơm thịt đề huề, gia đình ông sống rất sung túc. Cũng vì lí do đó, ông lão luôn giữ gìn ngọn lửa không bao giờ dám để tắt. Nhưng một hôm lúc ông cụ đi vắng, người con dâu của ông vừa đi ra suối múc nước về bỗng thấy lửa bén vào vách mà nhà vắng không có ai cả, chị ta liền mang cả vò nước xối vào khắp cả mọi nơi. Đến khi ông lão trở về thì tiếc thay lửa đã tắt ngấm không còn một chút than đỏ nào nữa. Vì vậy, người trần không ai được dùng đến ngọn lửa thần nữa. Họ chỉ có thứ lửa thường và cả ngọn lửa này nếu không biết cách giữ gìn thì cũng có thể bị mất nốt.

Và với ngoại hình, cũng như tính tình của mình dù chưa sử dụng đến quyền năng vốn có thì thần lửa cũng làm cho người ta sợ hãi. So với nữ thần Lửa thì các nữ thần khác trong thần thoại người Việt lại được khắc họa với nhiều vẻ đẹp như: Thần Vàng thường hiện lên là một thiếu nữ kiều diễm với những vòng hào quang rực rỡ; Nữ thần Lúa là một cô gái xinh đẹp, dáng người ẻo lả và có tính hay hờn dỗi… nhưng xét về quyền lực thì thần Lửa lại có sức mạnh hơn cả. Chính vì vậy mà mãi cho đến sau này người đời vẫn thường truyền tai nhau câu nói đừng đùa với lửa để nói đến việc không nên đùa giỡn với những nguy hiểm mà ta biết trước hậu quả của nó sẽ đem lại. Bởi vậy, một mặt ngọn lửa là một quyền lực sáng tạo, nhưng mặt khác ngọn lửa cũng là một quyền năng mạnh mẽ có tỉnh hủy diệt và tẩy uế.

Lửa – hủy diệt

Trong thiên thần thoại người Việt, nữ thần Lửa được Ngọc Hoàng giao cho một trọng trách lớn: giữ lửa. Với quyền năng chuyên biệt này, lửa của nữ thần cũng có rất nhiều loại: có loại lửa thường – thần rất sẵn lòng cho nếu ai thành tâm đến xin; có loại lửa xanh – chỉ thần Sét mới được dùng. Đặc biệt, thần còn có một thứ lửa màu nhiệm có thể đặt nồi không mà nấu được những thức ăn rất ngon lành. Phải chăng thứ lửa màu nhiệm trên chính là hình ảnh của ngọn lửa thường ngày chúng ta hay thấy, nó giúp ta lí giải vì sao lửa lại nấu chín thức ăn, rèn kim loại, làm đồ gốm, nung gạch và vận hành nhà máy nhiệt điện… Chỉ vì thời đó, con người chưa có đủ tri thức khoa học như ngày nay để lí giải một cách logic mà hình tượng hóa biểu tượng này thành một vị thần với tình tình hung dữ là một bà lão rất khô khan để nói đến khả năng hủy diệt hay nói cách khác là quyền năng hủy diệt – những đám cháy nói đến trong thần thoại đó chính là những cơn giận dữ của thần. Nếu để cơn giận dữ của thần bốc lên thì quyền năng giữ lửa mọi khi chúng ta sẽ không còn thấy mà thay vào đó là gây ra sức mạnh hủy diệt với những đám cháy. Hơn nữa, người ta còn sợ rằng những lúc cháy ấy hốt hoảng đổ nước nhiều thì lửa tắt đi. Vì vậy, việc duy trì ngọn lửa là vô cùng khó khăn.

Ngoài thứ lửa màu nhiệm, thần Lửa trong thần thoại người Việt còn có một thứ bảo bối dùng làm vũ khí luôn luôn ngậm trong miệng. Đó là rất nhiều chiếc lưỡi đỏ lòm, có thể liếm một cái là cháy trụi hàng cánh đồng, hàng dải núi và làm khô cạn hết nước ao hồ. Điều này cũng giúp người xưa lí giải vì sao lại có tình trạng hạn hán, cánh đồng cây lúa khô héo, thậm chí cháy rừng,…

Ở một khía cạnh khác, trong tự nhiên có một dạng vật chất khác tương đồng với lửa, đó chính là mặt trời. Hai dạng quyền năng này đều sớm được con người nhân cách hóa và thờ phụng như những vị thần tối cao. Sự đồng nhất giữa lửa và mặt trời có thể thấy trong thần thoại người Việt. Vũ trụ ban đầu lạnh lẽo, tối tăm. Trời đã cho xuất hiện chín mặt trời và mười mặt trăng thi nhau chiếu sáng và thiêu đốt mặt đất khiến con người và muôn vật không sống nổi. Mặt trời chính là biểu tượng của thần linh, ánh sáng vĩnh cửu và là trung tâm của vũ trụ nhưng nó cũng là biểu tượng của sự hủy diệt.

Bên cạnh đó, nếu quyền lực khi được chuyển giao hay vì một lí do nhất định rơi vào tay những người tốt thì không sao còn nếu rơi vào tay kẻ xấu thì quyền năng ban đầu có tốt bao nhiêu thì nó cũng trở nên nguy hiểm hơn bao giờ hết. Đặc biệt, ngay trong thần thoại Thần Lửa điều này cũng được đề cập khi nói tới bộ hạ của thần Lửa. Trong số bộ hạ thần Lửa có thằng Bợ hung ác quen thói. Nó ở với thần Lửa lâu năm, một hôm ăn cắp lửa của thần rồi trốn đi. Nó là kẻ thù của loài người. Vì trong câu chuyện chỉ đề cập đến như vậy, nên ta chưa biết được mức độ gây hại của tên bộ hạ này gây ra những gì đối với trần gian nhưng lửa không phải là thứ ai cũng có thể đùa với nó được, bởi vậy với thói hung ác của mình thì những lúc mà thần lửa nổi giận được bộ hạ hung ác này sử dụng thì hậu quả để lại là không nhỏ. Phải chăng, thằng Bợ – bộ hạ của thần Lửa là biểu trưng về sự phá hủy của ngọn lửa. Thần Lửa ở đây là sự hình tượng hóa, thần thánh hóa hiện tượng bức xạ nhiệt quá lớn của mặt trời cộng hưởng với gió Lào gây cháy nhà hàng loạt, một hiện tượng thiên tai cụ thể và kéo dài mãi đến thời hiện đại. Ngọn lửa thiêng đem văn minh đến cho con người và lửa với sức tàn phá, hủy diệt có thể đẩy loài người đến chỗ diệt vong.

Lửa – phương tiện vận chuyển

Người Việt gọi thần lửa là ông Táo và không phải ngẫu nhiên người ta lại gọi như vậy. Cái tên này cũng bắt nguồn từ chính những câu chuyện thần thoại Thần Bếp, quá trình hình thành Thần Bếp là một loại tín ngưỡng thờ lửa cổ xưa [12. 84]. Có lẽ, để giải thích cho biểu tượng lửa này, người xưa đã dùng trí tưởng tượng ngây thơ, chất phác của mình để tưởng tượng gắn con người có những phép thuật kì lạ giống như ngọn lửa hiện thực, hình tượng hóa ngọn lửa cho thấy nó có tầm ảnh hưởng đối với người xưa như thế nào? Từ đó có thể thấy, lửa có vai trò quan trọng trong đời sống tâm linh người Việt. Với dân tộc Dao thì mở đầu cho ngày tết âm lịch của mình bằng lễ cúng thần Lửa; người Pà Thẻn lại có tục nhảy lửa vào tháng Giêng; người Ê Đê và Mnông xem lửa là vị thần may mắn luôn bảo vệ con người.

Có thể nói, lửa chính là phương tiện vận chuyển giữa con người trần thế và thần thánh. Trong thần thoại Việt, ý nghĩa này được thể hiện qua việc chặt cây khô đốt để hun muỗi. Không ngờ trong số những cành cây khô có trầm hương và kỳ nam, khói thơm bay lên đến Ngọc Hoàng. Với hình thức này lửa còn có ý nghĩa như là cầu nối từ thế giới Âm – Dương. Điều đó được thể hiện rất rõ trong nghi lễ dâng hương của người Việt. Họ tin rằng nén hương khi được đốt lên như là một nhịp cầu vô hình kết nối hai thế giới vô hình và hữu hình với nhau. Không chỉ vậy, lửa cũng còn có sức mạnh xua đuổi tà khí. Điều này thể hiện trong những phong tục như đốt vía, xua đuổi tà ma,…Thông thường, người mới chuyển đến nơi ở mới họ thường đốt một đống lửa to trong nhà để xua đuổi không khí lạnh lẽo để tạo hơi ấm, tạo sức sống mới cho ngôi nhà; hoặc là người đi chợ gặp người mà họ cho là vía xấu, họ châm lửa đốt giấy để vía lành ở lại, vía dữ bay đi

Hay tục thờ lửa trên bàn thờ người Việt trong ba ngày tết qua hình thức thắp nhang, đèn, nến không chỉ thể hiện sự kết nối giữa hai thế giới mà còn nhằm nói lên ý niệm cầu mong ánh sáng đầy đủ trong năm. Quyền năng của lửa không chỉ dừng lại ở khả năng mang đến hơi ấm, mang đến sự hồi sinh, mà biểu tượng lửa cũng có ý nghĩa là sự sống, thắp lên lửa là thắp lên sự sống, thắp lên tình yêu, thắp lên niềm tin, sự lạc quan vào tương lai tương sáng. Hơn nữa, lửa có mặt trong mọi hoạt động của cuộc sống con người và trở thành một biểu tượng trong đời sống tinh thần mang tính chất tái sinh của người dân từ xưa đến nay. Có lẽ những nét đẹp văn hóa ấy mãi vẫn như mạch nước nguồn nhuần thấm len lỏi chảy trong tâm hồn bao thế hệ lớp người Việt Nam. Và khởi nguồn của nó chính là từ thần thoại. 

Lửa – biểu tượng của tình yêu, tình cảm vợ chồng

Trong thần thoại, lửa cũng được dùng nhiều với ý nghĩa là biểu thị cho những sắc thái, cung bậc khác nhau của tình cảm vợ chồng. Trong truyện Thần Bếp kể rằng: Thần Bếp có tên là ông Táo hay Núc, Với quyền năng của thần ghi chép những hành vi và lời lẽ của mọi người ở trong gia đình thần trông nom…[18. 48]. Sự tích kể về hai vợ chồng chú tiều nghèo, lấy nhau lâu mà không có con. Người vợ rất thương yêu chồng, nhưng chồng thì có tính hay rượu chè và đánh đập vợ. Người vợ sau không chịu nổi nên bỏ trốn đi. Chị tiều chốn vào rừng, được chủ nhà là một người thợ săn cho ở đậu, được ít lâu hai người lấy nhau. Còn chú tiều, sau khi vợ bỏ đi, đâm ra hối hận quyết định đi tìm vợ. Chú tiều vào rừng, gặp túp lều tranh, ngạc nhiên khi thấy vợ mình ở đây, mới khóc lóc năn nỉ vợ trở về. Hai người đang trò chuyện bỗng thấy người thợ săn về. Người vợ hoảng hốt bèn bảo chồng trốn vào đống rơm. Người thợ săn vào đến cửa bảo vợ là săn được thỏ và mình lấy lửa đốt rơm thui con mồi. Người vợ rụt rè một lúc, người chồng xách thỏ ra lấy rơm đốt, lửa cháy bắt qua cả đống rơm. Chú tiều chết, người vợ đau lòng, nhảy vào đống lửa đang cháy, người thợ săn thấy vợ mình chết cũng nhảy vào lửa chết theo. Trời cảm động vì tình yêu đó nên cho cả ba hóa thành ba ông Táo, chụm đầu vào nhau trong bếp.

Một dị bản khác cũng kể câu chuyện có nội dung tương tự, nhưng nhân vật ở đây không phải là vợ chồng chú tiều mà là Trọng Cao và Thị Nhi. Và kết thúc truyện, Ngọc Hoàng cũng cảm vì tình yêu của ba người bèn cử làm thần Bếp đi cử việc trông nom thổi nấu ăn uống cho nhân gian, luôn thể xem xét từng gia đình trong một năm có những hành động tốt xấu thế nào đến ngày 23 tháng Chạp sẽ lên thiên đình báo cáo. Đó chính là quyền lực riêng của thần Bếp. Nhưng so với thần Lửa hay các vị thần tự nhiên khác thì thần Bếp là vị thần không có phép thuật to lớn, quyền lực có phần hạn chế hơn thần Lửa.

Có thể nói, nhìn từ góc độ triết học thì dân gian cúng ông Táo là bắt nguồn từ sự sùng bái của loài người đối với lửa. Từ thuở hoang sơ, con người sợ sệt, tìm cách dung hòa, chinh phục thiên nhiên và học được cách dùng lửa.

Lửa đem lại ánh sáng, hơi ấm cho con người, lửa chống lại thú rừng, chống với giá rét, lửa có thể nung tách đá thành những mảnh phù hợp để làm công cụ sản xuất. Khi ăn những thức ăn chín, nhờ có lửa mà cơ thể con người đã phát triển nhanh hơn, khỏe mạnh, cường tráng hơn. Lửa dần dần trở thành vật sùng bái tự nhiên của con người, và vào hàng năm, người đều cúng Táo Quân, mong được Táo Quân ban phúc cho loài người. Đống lửa không bao giờ tắt, phải được ủ và đốt trong bếp, vì thế thần lửa và thần bếp (Hỏa thần và Táo thần) là một. Vì vậy, theo tín ngưỡng cổ truyền ngày 23 tháng Chạp là ngày Táo Quân cưỡi cá chép vàng lên trời báo cáo với Ngọc Hoàng Thượng đế những điều tai nghe mắt thấy ở trần gian.

1.2.Biểu tượng “thần khổng lồ” tự nhiên

1.2.1. Biểu tượng “thần khổng lồ” tự nhiên trong văn hóa nhân loại

Theo Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới của Jean Chevalier, thần tượng trưng cho tia ánh sáng không thể bị khống chế và tạo ra niềm tin sâu kín nhất và mãnh liệt nhất. Thần tượng trưng cho bản thể tinh thần tồn tại trong mỗi con người, xet về mặt thể xác hoặc tinh thần.

Jean Beaujeu viết: mỗi con người có một vị thần (Genius) của mình; thần không phải là dạng nhân cách hóa của bản nguyên sinh sản mà nói đúng hơn thần theo cách diễn đạt của G. Dumézil là nhân cách đã được thần thánh hóa của một con người, đúng như lúc sinh ra; nhưng thần cũng xuất hiện như một bản sao của cái tôi và còn có thể như một con người tách rời bảo vệ cho cái tôi…Sau này, người ta đã coi là những tập thể con người đều có Thần bảo trợ, ít nhiều có ý nghĩa tượng trưng, Viện Nguyên lão, dân tộc La Mã, một thành quốc, một đơn vị quân đội và thậm chí cả các thần, cũng đã có vị thần của riêng mình. Trải qua một quá trình tiến hóa lâu dài của ý thức mới có thể coi thần hoặc các vị thần là những dáng vẻ khác nhau trong nhân cách của mỗi con người. Từ đó, nó tạo nên đặc trưng riêng cuả họ với những xung đột nội tâm, khuynh hướng hay lí tưởng của họ lúc bấy giờ.

Cũng như các vị thần khổng lồ, sau này ta thấy xuất hiện những pho tượng thần linh và vua chúa có kích thước khổng lồ được phát hiện nhiều ở Ai Cập, ở châu Mỹ, ở châu Á,…Những pho tượng rất to được tạc bằng đá này hoặc được đục đẽo ngay từ những núi đá vẫn có hình thù, đường nét chuẩn xác như những pho tượng cỡ nhỏ hoặc có kích thước tự nhiên. Những kích thước bất thường này tượng trưng cho những năng lực siêu nhiên mà các vị thần được trao. Chúng cũng khẳng định bản chất bất biến và siêu nhiên của họ. 

1.2.2. Biểu tượng “thần khổng lồ” tự nhiên trong thần thoại người Việt

Thần thoại được xem là loại hình văn học ra đời sớm trong lịch sử loài người khi mà khả năng khái quát hoá, biểu trưng hoá phát triển ở một trình độ nhất định, hay nói cách khác, khi mà tri thức của con người về thế giới và về bản thân đã đạt được những thành quả nhất định. Từ sự hoàn thiện về nhận thức đó mà tư duy triết học cũng bắt đầu hình thành và được thể hiện một cách khá rời rạc, mộc mạc, chất phác trong thần thoại.

Trong thần thoại các tộc người, trước khi xuất hiện những vị thần khổng lồ đã có thế giới rồi. Có nghĩa là thế giới tự nhiên là một thực thể vật chất, tồn tại khách quan và là đối tượng tác động của con người. Những vị thần sáng tạo, họ chỉ làm công việc thay đổi hình thù của thế giới mà thôi.

Đúng vậy, trong thần thoại, ta bắt gặp hình ảnh các vị thần luôn có hình thức khổng lồ, đồ sộ, mô phỏng sự đồ sộ của tự nhiên, vũ trụ đúng như tư duy hồn nhiên, ấu trĩ của người xưa với những quyền năng đặc biệt riêng. Nếu trong thần thoại các nước Đông Nam Á, nhân vật “người khổng lồ” thường là hình ảnh của các hành tinh trong vũ trụ như Rahu – Vua các vì tinh tú lang thang trên bầu trời (Thái Lan); Sura – chúa một hành tinh khác chỉ xuất hiện khi có nhật thực, nguyệt thực (Mianma),…thì trong thần thoại Việt Nam đó là hình ảnh của những vị thần khổng lồ như Thần Trụ Trời bước một bước từ đỉnh núi này sang đỉnh núi nọ. Ải Lậc Cậc (Thái) không biết thân hình khổng lồ dường nào, nhưng một cái dằm đâm phải dương vật thần, khều ra được một khúc gỗ lớn, đem khoét làm thuyền chở được bảy người. Vị thầnTầm Thênh (Chăm) to lớn đến mức, đầu thần ở trong nhà, thân ưỡn ra cả cánh đồng mênh mông, chân dài đến bờ biển. Rơ Xí (Xê Đăng) thân hình to lớn như trái núi, bàn chân thần đặt đến đâu là mặt đất lõm xuống thành ao hồ. Pú Cáy (Tày) khi ngủ lấy một quả núi làm đầu gối,…Thần thoại của người Việt phổ biến có hình tượng về người khổng lồ là Thần Trụ Trời với thân hình to lớn to lớn không biết bao nhiêu mà kể; chân thần bước một bước cứ như bây giờ từ tỉnh này qua tỉnh nọ hay là từ đỉnh núi này sang đỉnh núi kia. Công việc của thần là đứng dậy đội trời lên cao rồi đào đất, đá đắp thành một cái cột vừa cao vừa to để chống trời. Tiếp theo công việc phân khai trời của thần Trụ Trời là đến công việc kiến tạo của một loạt các vị thần khác. Vì vậy, với quyền lực cao cả của mình Thần Trụ Trời sáng tạo ra trời đất để lí giải được câu hỏi của người xưa rằng vì sao trời đất lại cách xa nhau.

Truyện Thần Biển nhận thức sức mạnh tự nhiên, quy luật tự nhiên một cách trực tiếp, bộc trực. Hồi xưa có một vị thần đội lốt một con rùa. Thân hình của thần rất to lớn. Thần nằm yên lặng một nơi ở ngoài biển đông rất xa xôi, không ăn uống, không làm lụng, không ngủ. Thần chỉ làm mỗi công việc là hô hấp, khi thần thở ra thì nước biển dâng lên, khi thần hít vào thì nước biển xuống thấp, làm thành hiện tượng thủy triều,…cũng có truyện kể rằng: thần Biển là một nữ thần, thường che chở cho thủy thủ mỗi lúc sóng to gió lớn.

Theo quan niệm của người Việt xưa thiên nhiên xung quanh họ chính là thành quả lao động miệt mài của những vị thần khổng lồ – những vị thần có sức mạnh, quyền năng sáng tạo trong buổi khai thiên lập địa. Hình dạng của thần thường là biểu hiện hiện tượng của quy luật tự nhiên. Với Thần Biển, sự hình dung của người xưa thật kì diệu. Đứng từ bờ biển nhìn ra khơi xa mặt biển khum như cái mu rùa hay ba ba. Dân gian thưở đó đã nảy ra ý nghĩ cho rằng thủy triều là thần biển thở.

Bên cạnh đó, trong thần thoại về buổi đầu lịch sử của người Việt còn có hình ảnh của các cặp đôi Nữ Oa – Tứ Tượng, Thần Nam – Thần Nữ, Lộc Cộc – Tồ Cô. Tất cả họ đều là biểu tượng “Người khổng lồ”. Các vị thần này không chỉ là biểu tượng của sức sáng tạo của con người mà còn là biểu tượng cho sự hòa hợp âm dương, cho quan niệm về hôn nhân và gia đình của người Việt. Trong Bà Tồ Cô, ta cũng bắt gặp nhìn quang cảnh núi sông, đồng ruộng, cây cỏ hoa lá bốn mùa kế tiếp nhau xanh tươi, bà Tồ Cô hài lòng lắm… tại đây, bà Tồ Cô đã đẻ ra một cái bọc. Từ cái bọc nở ra mười hai người con gái xinh đẹp. Các cô gái thay mẹ chia nhau đi khắp bốn phương dạy dân các nghề nghiệp, một cô đều trở thành vua bà của một vùng.

Như vậy, ta có thể nhận thấy biểu tượng “thần khổng lồ” là một trong những biểu tượng quyền lực tiêu biểu của thần thoại người Việt. Họ là những người có sức vóc phi thường, là những người “khổng lồ” để đảm nhận những công việc nặng nhọc, sức mạnh của họ sánh ngang với sức sáng tạo của thiên nhiên. Sức khỏe và tài năng phi thường của họ chính là sự tăng cấp nhiều lần khả năng của bản thân. Có thể nói, người nguyên thủy có lãng mạn đến đâu cũng chưa thể hình dung được cái gì khác hơn là chính bản thân mình. Vì vậy, thần chính là sự thần thánh hóa, sự tăng cấp tài năng và sức mạnh của chính con người, trong đó mang mơ ước thay đổi tự nhiên, cải biến vũ trụ. Sự khổng lồ về kích thước, sự khoáng đạt và vĩ đại trong hành trạng của những vị thần – anh hùng cộng đồng, tạo ra vẻ đẹp kì vĩ và đầy lãng mạn.

1.3. Biểu tượng nước

1.3.1. Biểu tượng nước trong văn hóa nhân loại

Theo từ điển Biểu tượng văn hóa thế giới của Jean Chevalier ý nghĩa tượng trưng của nước có thể quy về ba chủ đề chiếm ưu thế: nguồn sống, phương tiện thanh tẩy, trung tâm tái sinh. Ba chủ đề này thường gặp trong những truyền thuyết cổ xưa nhất và hình thành những tổ hợp đa dạng nhất và đồng thời cũng chặt chẽ nhất. 

Nước là khối vật chất chưa phân hóa, là hình tượng của số lượng vô cùng lớn của những khả năng diễn biến, chứa đựng cái tiềm tàng, cái phi hình, cái mầm mống của mọi mầm mống, tất cả mọi hứa hẹn về sự phát triển, nhưng cũng chứa đựng mọi mối đe dọa bị tiêu tan. Đầm mình trong nước để rồi lại đi ra mà không tự hòa tan hết vào trong đó, trừ khi do một cái chết tượng trưng, đó là trở về nguồn cội, tự tiếp nguồn cho mình trong một kho dự trữ tiềm năng rộng mênh mông và lấy ở đó một sức mạnh mới: là một bước thoát lui và tan rã nhất thời, tạo tiền đề cho một bước tiến lên để tái thống hợp và tái sinh. 

Trong những nền văn hóa khác nhau, có những biến thể về các chủ đề chính yếu này, giúp chúng ta hiểu rõ hơn và đi sâu hơn vào những tầm cỡ và những sắc thái trong ý nghĩa tượng trưng của nước, trên một cơ sở gần như đồng nhất. 

Tại châu Á, nước là một dạng thức thực thể của thế giới, là nguồn gốc sự sống và là yếu tố tái sinh thể xác và tinh thần, là biểu tượng của khả năng sinh sôi nảy nở, của tính thanh khiết, tính hiền minh, tính khoan dung và đức hạnh. Là chất lỏng, nước có khuynh hướng hòa tan; nhưng chất lỏng thuần nhất, nó có khuynh hướng liên kết và đông tụ.

 Người Trung Hoa nói nước là wouki (Vô cực) là cái Không có Đỉnh, là trạng thái hỗn mang không phân định ở thời nguyên thủy. Những dạng nước tiêu biểu cho toàn bộ mọi khả năng của Bản Thể, chia tách thành Nước thượng đẳng (trên trời) tương ứng với những khả năng phi hình và Nước hạ đẳng (dưới đất) tương ứng với các khả năng hữu hình. 

Nước là nguồn gốc và phương tiện chuyển tải sự sống; Về mặt thể chất và cũng do nước cũng là một thứ trời cho, nước được coi là một biểu tượng phổ biến về sự phì nhiêu và khả năng sinh sản dồi dào. Nước thuộc âm, đối lập với lửa. Nước tương ứng với phương Bắc, với cái lạnh, với ngày đông chí, với thận, với màu đen, với quẻ khảm (quẻ này là vực thẳm của biển). 

Nước đã có tính năng thanh tẩy lại còn có thêm một năng lực cứu sinh. Việc dìm xuống nước có tác dụng tái sinh, làm cho con người ra đời một lần nữa, theo ý nghĩa của nước vừa là sự chết vừa là sự sống. Nước xóa hết lịch sử vì nó khôi phục con người trong một trạng thái mới. Việc dìm mình trong nước ví như việc chọn Chúa Kitô xuống mộ: sau khi bị hạ xuống dưới lòng đất, Chúa đã phục sinh. Nước là biểu tượng cho sự tái sinh: nước rửa tội rõ ràng dẫn dắt tới một lần sinh mới. 

Nhưng nước có thể tàn phá và nhấn chìm, nuốt chửng, những cơn lốc hủy hoại những cánh đồng nhỏ đang ra hoa. Vậy là, nước có thể có thể có một sức mạnh gây tác hại. Trong trường hợp đó, nước trừng trị những kẻ có tội, nhưng không thể làm hại những người chính trực, những dòng nước đó hóa  thành nước của sự sống. Cũng giống như lửa, nước cũng có thể dung làm một phương tiện thử tội. Nước không phân xử mà những vật ném xuống nước tự phán xử. 

Hơn nữa, nước còn tượng trưng cho tính thanh khiết và được dùng làm phương tiện tẩy uế. Lời nguyện cầu theo nghi thức của đạo Hồi chỉ được coi như thực hiện đúng phép khi người cầu nguyện đã tắm gội sạch sẽ theo nghi thức, bao gồm nhiều quy tắc tỉ mỉ. Cuối cùng nước tượng trưng cho sự sống: nước hồi sinh mà con người tìm được trong cõi tối tăm có tính năng làm sống lại. 

Từ những biểu tượng cổ xưa coi nước là nguồn thụ tinh cho đất và sinh ra những cư dân trên mặt đất, chúng ta có thể quay trở lại với những biểu hiện phân tâm học của nước, được coi như là nguồn thụ tinh cho tâm hồn: sông nhỏ, sông lớn, biển là hình tượng của đời người và của những biến động của những ước muốn và cảm xúc. Nước là biểu tượng của những năng lượng vô thức, của những sức mạnh không định hình của tâm hồn, của những động cơ thầm kín và không cảm nhận thấy. 

Như vậy có thể thấy trong từ điển, nước được quy vào ba phương diện chính: nguồn sống, phương tiện thanh tẩy và trung tâm tái sinh. Mỗi quốc gia, mỗi khu vực lại có một cách nhìn nhận khác nhau về ý nghĩa của nguồn nước, điều đó được thể hiện rất rõ trong quan điểm, trong phong tục tập quán, trong sinh hoạt, văn hóa của họ. Vậy khi đi vào trong thần thoại, liệu ý nghĩa của Nước còn giữ được giá trị nguyên bản của nó không hay lại có cách hiểu, có những ý nghĩa khác?

1.3.2. Biểu tượng nước trong thần thoại người Việt

Nước – nguồn sống, trung tâm tái sinh

Cũng như các vị thần quyền lực khác, biểu tượng nước trong thần thoại được thể hiện qua hai vị thần quyền lực chính là Thần NướcThần Mưa. Hai thần đều có mình rồng, cùng một tộc, đều được Ngọc Hoàng ủy thác nhưng quyền năng mỗi bên mỗi khác. Mỗi thần cai quản một giang sơn riêng. Cách thức thể hiện quyền năng của họ cũng vậy.

Thần nước với sức mạnh của mình quản trị thế giới sông, biển, ao, hồ, làm vua mọi giống thủy tộc. Vì là người đứng đầu nên thần luôn cử các tướng tá – giống thủy tộc có công trạng như thuồng luồng, cá sấu, rắn, cá,…trông nom mỗi vùng thuộc thủy giới. Với quyền lực như vậy nên mỗi khi gặp hạn hán, người ta cầu đảo với Long Vương cho mưa xuống. Trái lại, khi mưa quá nhiều thành lụt lội, người ta xin Long Vương đừng cho mưa nữa. Và với thần hình to lớn, ở cả một thế giới riêng dưới nước, có quyền năng khác thường có sức mạnh làm được những đi u đó một cách dễ dàng. Cũng chính vì vậy mà quyền lực của thần được suy tôn mang tính tự nhiên. Trong trường hợp này thì quyền lực của thần cầm quyền gắn luôn với trách nhiệm của họ và trách nhiệm đó mang tính tự thân nhưng chắc chắn họ phải có một quá trình khẳng định mình trước cộng đồng. Ở đây, thần nước đã thực hiện được quyền lực khi hoàn thành tốt quyền năng của mình.

Nói đến quyền năng của thần nước cai quản được tất cả thế giới trên, nhưng đôi khi thần vẫn phải hóa thành người lên trên cạn giao dịch với người trần, có khi con cháu thần kết duyên với người nữa. Phải chăng, đó cũng là điều mà thần Nước chưa cai quản được nhờ quyền uy sẵn có của mình đối với con cháu, để con cháu lộng quyền, thậm chí gây nên tai họa. Nếu con gái của thần lên lấy chồng ở trần gian thì con trai thần lại cướp con gái của trần gian về làm vợ. Ngoài ra trong Truyện Ông Dài Ông Cụt, sự xuất hiện của hai con rắn như đã nói ở trên được coi là bộ hạ của thần Nước giao cho cai quản một khúc sông rộng. Với tình tình dữ tợn, bắt người cướp của quen tay, ông Cụt nổi sóng dữ dội làm cho phải đắm. Điều đó khẳng định rằng: Bộ hạ của thần cũng có quyền năng nhất định nhưng không dùng nó vào những việc tốt mà ngược lại. Nói như vậy để thấy rằng, khi quyền lực rơi vào tay kẻ xấu thì sự tha hóa trong quyền lực là khó có thể tránh khỏi.

So với thần Nước thì thần Mưa lại thực hiện quyền năng của mình bằng một cách thức khác. Nếu thần Nước cai quản một địa phận nước nhất định thì thần Mưa thường đi phân phát nước ở khắp nơi. Cũng với thân hình rồng, thần sử dụng quyền lực của mình bằng cách xuống hạ giới hút nước biển, nước sông vào bụng rồi bay lên trời cao phun nước ra làm mưa cho thế gian. Bởi vậy, thế gian có nước uống và cày cấy, cây cỏ trên mặt đất được tốt tươi. Đó cũng là lí do vì sao người ta cho rằng, nước chính là biểu trưng cho sự sống, nguồn sống, là biểu tượng có khả năng sinh sôi, nảy nở, chẳng phải có nước mới có sự sống sao?

Trong số những dạng tha hóa quyền lực trong xã hội ngày nay thì phần nào ta cũng thấy bóng dáng của sự tùy tiện, vô trách nhiệm của thần Mưa trong thời kì nguyên sơ với quy n lực không tự giác này. 

Ngoài công việc hữu ích cho muôn loài ở hậu giới thì thần Mưa lại có tính hay quên, có vùng cả năm không đến, sinh ra hạn hán ở hạ giới, có vùng lại đến luôn, làm thành lụt lội. Hay nói cách khác khi thực hiện quyền năng của mình, thần Mưa phân phối không đều nên gây ra tai hại, thậm chí là có nhiều lúc nhầm lẫn gây ra nhiều thiệt hại như đồng điền, nhà cửa hư hỏng rất nhiều. 

Sự nhầm lẫn, sự quên của thần cho thấy được bản thân thần là người nắm giữ quyền lực nhưng lại không biết rõ quyền lực của mình đến đâu, sự phân định quyền năng không rõ ràng và bản thân thần có sự cẩu thả, không ý thức về hậu quả của sự tùy tiện. Thêm nữa, với những hành động mà thần đã làm thì còn cho thấy sự vô trách nhiệm đó là thần Mưa vắng mặt lâu ngày đến nỗi có lần ở hạ giới Cóc phải lên kiện trời. Ngọc Hoàng xét lại sự đó mới hay thần Mưa báy lâu nhãng bỏ công việc đắp chiếu nằm khoèo. Nhiều khi sự thiếu trách nhiệm của thần có thể gây lũ lụt hay hạn hán, cây cỏ lúa má cháy khô, đất đai nứt nẻ, thú vật và người chết dần chết mòn.

Vì là những thiên thần thoại nên chúng ta ý thức rõ được rằng, người xưa sáng tạo ra thần Mưa một phần để lí giải vì sao lại có mưa, mưa nhiều tạo thành lũ lụt, hay không có mưa thì dẫn đến hạn hán, phần khác để thể hiện niềm tin của con người về các hiện tượng tự nhiên đó được thần thánh hóa bằng các hiện tượng tự nhiên. Tuy nhiên, cũng nhờ trí tưởng tượng đó mà phần nào ta thấy được, từ xa xưa giữa cộng đồng đã có sự tồn tại của quyền lực, sự phân chia cao thấp chưa thể hiện rõ ở con người vì ở thời đó khi con người còn hoang sơ, cuộc sống còn phụ thuộc hoàn toàn vào thiên nhiên, người ta đã nghĩ và tin rằng, quyền lực thuộc về tự nhiên, do các thần linh nắm giữ. Nhưng để khẳng định rằng, quyền lực không tự giác thời kì đó không có ảnh hưởng đến quyền lực sau này là chưa đúng, mà một phần nào nó cũng là cơ sở mà sau này nhờ trình độ nhận thức tăng lên, con người đã dần dần nhận ra và phân biệt được sức mạnh của tự nhiên và sức mạnh của con người biết chế ngự tự nhiên và quản lý xã hội. Từ đó quy n lực đích thực bắt đầu xuất hiện.

Như chúng ta thấy, mỗi vị thần với quyền năng của mình thường cai quản một giang sơn riêng nhưng không phải lúc nào cũng như vậy. Cũng có những lúc là sự phối kết hợp quyền lực của các thần để làm tốt một nhiệm vụ nhất định. Thần Sét một mình không làm được hết mọi việc, phải nhờ đến các thần khác như thần Chớp – với quyền năng của mình dùng cái gương tròn cầm ở tay để làm nên những làn chớp, thần Mưa để làm mưa, thần Mây dồn mây lại, thần Gió thổi gió đến. Thần Sét cũng nhờ đến vợ là bà Sét giúp sức,…Đó cũng là một phần nào bản chất của quyền lực.

Nước là biểu tượng của năng lực vô thức, của những sức mạnh không định hình của tâm hồn, nước là biểu tượng của tâm trí còn đang ở mức vô thức, chứa đựng những nội dung tâm hồn để lấy nó nuôi sống bản thân. Hơn nữa, nước còn trở thành biểu tượng của tinh thần và của thánh linh, Chúa trời ban cho loài người. Nước của sự sống được coi là một biểu tượng về nguồn gốc vũ trụ. Ngoài ra, nước tượng trưng cho sự sống: nước hồi sinh mà con người tìm được trong cõi tối tăm, có tính năng làm sống lại. Và rồi những nghi lễ cầu nước được nảy sinh làm cầu nối giữa con người và thần thánh trong những lúc cần thiết.

Với những cư dân nông nghiệp lúa nước ở Việt Nam, lễ nghi nông nghiệp được diễn ra ở hầu khắp các công đoạn của việc trồng trọt và hoa màu, nhất là với canh tác nương rẫy. Họ đặt mọi ước vọng vào sự sinh sản, sinh sôi dồi dào của cây trồng và liên tưởng nó với một lực lượng siêu nhiên nào đó, coi đó như nguồn gốc của mọi sự sinh sản giống loài. Vì thế, lễ hội chính là phương tiện để truyền tải ước vọng của người nông dân, là biểu tượng nhằm hiện thực hóa thế giới ý niệm về đời sống tâm linh bằng những nghi thức, những hoạt động để con người giao tiếp với thần linh.

Theo Omraam Mikhael Aivanhov thì toàn bộ lịch sử “loài người được ghi chép trên sông hồ và đại dương trên thế giới” do đó mà “dấu vết của muôn loài, mọi đối tượng và mọi sự kiện đều sống động trong nước”. Ở phương Đông, nước được xem là “dạng thức thực thể của thế giới, là nguồn gốc của sự sống và là yếu tố tái sinh thể xác và tinh thần, là biểu tượng của khả năng sinh sôi nảy nở, của thanh khiết, tính hiền minh, tính khoan dung và đức hạnh” [19. 710]. Vì lẽ đó mà hàng ngàn năm qua đã tồn tại một biểu tượng nước vô cùng đặc sắc ở phương Đông, trong đó có Việt Nam. Chẳng hạn, cùng với sự trôi chảy của thời gian người Ấn Độ vẫn xem việc ngụp lặn trong dòng suối sông Hằng để tắm sạch linh hồn mình là mục đích cao cả nhất cuộc đời vì điều đó sẽ mang đến hạnh phúc trong cuộc sống này mà cả ở kiếp sau. Hay trong văn hóa Nhật Bản, nước mang một ý nghĩa biểu tượng sâu sắc. Điều này được lí giải rằng đây là đất nước được tạo thành bởi những đảo biệt lập nằm giữa biển, vì vậy không gian sống xung quanh được bao bởi nước.

Trong thần thoại Hy Lạp, “thần biển” Pontus cũng được coi là một nhân vật tương đương với “thần nước” trong thần thoại người Việt. Nếu “thần biển” được miêu tả là một vị thần cổ đại, có trước các thần Olympus, ông là một trong các thần Hy Lạp nguyên thủy thì “thần nước” trong thần thoại người Việt có một hình thù vĩ đại. Nếu làm thần tức giận thì thần sẽ trừng phạt bằng cách không cho nước xuống hoặc cho không đủ. Vì vậy mà dân làng phải thờ để tỏ thái độ tôn kính. 

Thần Nước của người Thái cũng tương tự như người Việt, biểu tượng này cũng bắt nguồn từ huyền thoại: một cô gái họ Mạc (dòng họ quý tộc của người Thái ở Mai Châu, Hòa Bình) bị thuồng luồng bắt làm vợ, sau đó xảy ra vụ đánh nhau và nơi ở của thuồng luồng bị lấp hẹp, nước chảy ít nên ảnh hưởng đến mùa màng. Vì vậy, ở người Việt hay người Thái đều thờ thuồng luồng như một vị thần Nước và hàng năm có những lễ hiến tế cho thần.

Nước mang ý nghĩa thuần khiết bởi nó chính là tấm gương phản chiếu những hình ảnh của tự nhiên, cuộc sống một cách rõ ràng và chân thật nhất như thể chúng ta đang tồn tại trong nước. Khi chúng ta yên lặng nhìn xuống mặt nước, chỉ cần một xao động dù là nhỏ nhất trên bề mặt nước thì thử hỏi liệu trên bề mặt những hình ảnh phản chiếu sẽ trở nên méo mó và sai lệch như thế nào? Bởi vậy, người ta thường gọi nước là biểu tượng có ý nghĩa cực kì quan trọng. Đó là hiện thân của một biểu tượng “sống”.

1.4. Biểu tượng đất

1.4.1. Biểu tượng đất trong văn hóa nhân loại

Trong Từ điển biểu tượng văn hóa thế giới đã nói khá rõ ràng về ý nghĩa gốc của biểu tượng Đất. 

Đất đối lập với trời một cách tượng trưng như là bản nguyên thụ động đối lập với bản nguyên chủ động; khuôn mặt nữ tính đối với khuôn mặt nam tính của thế giới; bóng tối đối với ánh sáng. 

Đất tượng trưng cho chức năng của người mẹ. Đất cho và lấy lại sự sống.

Như vậy là đã đồng hóa đất mẹ với lòng mẹ. Trong đạo Vệ Đà, đất cũng tượng trưng cho người mẹ, nguồn gốc của hiện hữu và sự sống, che chở và chống lại mọi sức mạnh hủy diệt. Được đồng nhất với người mẹ, đất là một biểu tượng cho sức sản sinh và tái sinh. Đất sinh ra mọi sinh vật, nuôi dưỡng muôn loài để rồi tiếp nhận lại từ chúng cái mầm đầy sức sinh nở. 

Ở người Maya, hình đất khắc chìm đồng thời là hình tượng nữ thần trăng, bà hoàng của các chu trình sinh sản. Vị nữ thần già này vừa là trăng vừa là đất của người Maya có một chức năng hàng đầu: bà là chủ tể số 1. Tức là bà chủ trì công cuộc sinh đẻ, chủ trì cội nguồn của mọi sự vật, chủ trì bước khởi đầu hình thành thế giới. 

So với nước cũng là gốc của vạn vật, người ta thấy sự khác biệt của đất ở chỗ Nước có trước sự hình thành vũ trụ, còn đất thì sản sinh ra các hình dạng sống. Nước là cái khối lượng chưa phân hóa, đất biểu thị những mầm mống riêng biệt. Các chu kỳ của nước bao gồm những thời kỳ dài hơn các chu kỳ của đất trong cuộc tiến hóa chung của Vũ Trụ. 

Nhưng đất để đến không xa lạ với đất khởi thủy. Miền đất khởi thủy này luôn giữ tính chất thiêng liêng của mình. Do vậy khi một nhóm người muốn tự tái sinh về tinh thần, thì nó thực hành một thứ trở về với quê cha đất tổ. Mộ không gian thiêng liêng giữ được hiệu lực là nhờ tính thường hằng của sự hiển linh đã một lần tháng hóa không gian đó. Với tính thiêng liêng ấy, với vai trò người mẹ ấy, đất can thiệp vào đời sống xã hội như là một đảm bảo cho các lời thề. Nếu lời thề là mối ràng buộc cốt tử của cộng đồng, thì đất là mẹ và vú nuôi của toàn xã hội. 

Trong văn hóa của mỗi quốc gia, dân tộc thì ý nghĩa gốc của Đất vẫn không giống nhau. Nếu như với dân tộc này, đất có ý nghĩa là thể hiện tình yêu thiêng liêng, cao cả, là cánh tay bao bọc, chở che của mẹ đất với những đứa con của mình thì với dân tộc khác, nó lại thể hiện niềm vui, niềm hạnh phúc nhưng có khi lại thể hiện một nỗi buồn, nỗi cô đơn… Do vậy, biểu tượng Đất cũng chứa tính đa nghĩa, chứa đựng nhiều hàm ý sâu xa khác nhau. 

1.4.2. Biểu tượng đất trong thần thoại người Việt

Đất là biểu tượng có yếu tố cực kì quan trọng đối với cư dân nông nghiệp. Vì “Tấc đất là tấc vàng” nên nếu không có đất thì chẳng biết gieo trồng vào đâu để cho cây cối đơm hoa, kết quả cung cấp lương thực cho con người. Chính vì vậy, từ xa xưa biểu tượng này đã được con người thời kì đầu lí giải một cách sáng tạo. Điều này được thể hiện rất rõ trong các câu chuyện thần thoại. Thần cũng có quyền năng riêng, cai quản địa phận của mình.

Trong vô số vị thần có liên quan đến đời sống văn hóa của con người thì thần Đất là một trong những vị thần quan trọng nhất và xuất hiện sớm nhất.

Thờ thần Đất vì thế cũng là một trong những tín ngưỡng sơ khai của loài người ở nhiều nền văn hóa khác nhau. Người La Mã có Tellus/ Terra, người Maya có Ah Uuc Ticab, người Aztech có Tlaltecuhlti, người Ai Cập có Geb, người Ấn Độ có Vasudhara, người Trung Hoa có Thổ địa (Thổ Địa Công – Tu Di Gong), người Việt chúng ta có Thổ thần hay thần Đất.

Với trí tưởng tượng của mình, con người hình dung thần Đất có khi là mình rồng cho nên cũng có tên là thổ địa Long thần. Thần thường hiện ra với hình dạng là cụ già. Câu chuyện hé lộ cho chúng ta nhiều điều mà đến bây giờ các dân tộc đều có chung ý thức quý mến, tôn trọng, bảo vệ đất qua những nghi lễ, hành động cụ thể của mình. Trong 7 ngày cuối năm, thần Đất vắng mặt ở hạ giới lên chầu Ngọc Hoàng, thần đi vắng nên mặt đất đều ngừng hoạt động, vạn vật cũng ngừng sống trong một tuần đó. Đến 30 tết, thần mới xuống trần, mặt đất và muôn loài như bừng tỉnh sau một giấc ngủ dài. Và chỉ khi nào được sự cho phép của thần người ta mới được đụng chạm đến đất. Bởi vậy, ta thấy chỉ với sự xuất hiện của thần cũng thấy được thần có quyền năng ra sao. Hơn nữa, oai quyền của thần đất rất lớn, đối với những kẻ nào phạm việc thay đổi đất đai thuộc của mình mà không xin phép, thần nhất định trừng trị. Thần có phép dời cát, thay núi chỉ trong nháy mắt. 

Với biểu tượng đất, trong thần thoại Hy Lạp, thần đất Gaia là một trong các vị thần ban sơ, được người Hy Lạp tôn thờ là “đất mẹ”.Còn trong thần thoại Ấn Độ, đất mẹ Aditi lại được miêu tả là một người phụ nữ xinh đẹp có bốn tay. Biểu tượng đất ăn sâu vào đời sống tinh thần của người Việt nên ở Việt Nam có rất nhiều miếu thờ đất – thờ thổ địa Long thần.Thần Đất không chỉ có nhiệm vụ che chở, bảo vệ cho mọi người sống trong địa vực mình cai quản mà thần cũng có quyền điều phối, gia giảm đất đai nhiều ít, tốt xấu cho từng người và trừng phạt những ai xúc phạm, phá hoại nó. Do vậy, muốn được sống yên ổn, muốn cho đất đai màu mỡ, dễ làm ăn, mùa màng bội thu thì phải tôn kính thần, xử sự sao cho thần vừa ý để thần ban phát lộc cho mọi nhà.

Trên thực tế, mỗi nền văn hóa có nhiều vị thần có liên quan đến đất đai nhà cửa nên chúng ta có thể thấy nhiều hơn một vị thần có tên gọi là thần Đất.

Có lẽ, khi những cư dân Việt bắt đầu định cư thành làng thì khi đó cũng bắt đầu có các tín ngưỡng thờ thờ Thần Đất bên cạnh các thần khác như: Thần Núi, Thần Nước, Thần Cây, Thần Đá,…Những hình thức tín ngưỡng sơ khai này vẫn tồn tại trong văn hóa của người Việt cũng như nhiều dân tộc anh em khác cho đến ngày nay.

Xuất phát từ ý nghĩ ấy, xưa kia hầu hết các thôn làng trên mọi miền đấ nước đều lập miếu thờ thần Đất quanh nơi mình gọi là “miếu thổ thần” để nói đến quyền lực thay đổi mọi thứ của thần. Họ quan niệm rằng, đất có thần bảo vệ cai quản. Vì vậy, mỗi khi con người làm công việc gì quan trọng có liên quan đến đất như khai mương, đào giếng, xây cất chùa đình, làm nhà, phát rẫy, cày cấy,…đều phải làm lễ xin phép Thổ thần gọi là “lễ động thổ”. Nếu tự tiện, coi thường sẽ bị thần trừng phạt. Lễ động thổ cũng tương tự như lễ khai canh, lễ hạ điền, thượng điền, tịch điền xuống đồng, cúng đất. Nó là sự mở đầu của một năm sản xuất, một vụ sản xuất, do là một dịp động chạm đến đất nên phải có nghi lễ trình báo với Thổ thần. Bởi vậy, tín ngưỡng này là một dạng niềm tin phổ biến qua câu thành ngữ: Đất có Thổ công, sông có Hà Bá.

Tục xông đất trong ngày mồng một đầu năm cũng là một phong tục tết phổ biến ở người Việt. Nó xuất phát từ tín ngưỡng tôn sùng đất của cư dân Việt từ cổ xưa. Với cư dân nông nghiệp, đất và nước là hai yếu tố vật chất quan trọng nhất chi phối sự thành bại của sản xuất, cũng từ đó mà ảnh hưởng đến hạnh phúc hay bất hạnh của loài người. Với người Việt, đất và nước chính là Tổ quốc, trong đó bao hàm những gì quan trọng và thiêng liêng nhất. Mảnh đất riêng của mỗi gia đình cũng là không gian thiêng liêng nhất chi phối sự may mắn hay đen đủi của gia đình. Vì vậy, trong ngày đầu năm mới, thời khắc mở đầu của những cái bắt đầu cho cả năm là quan trọng. Người đầu tiên đặt chân vào mảnh đất thiêng liêng của một gia đình vào sáng mồng một tết. Họ dường như là sứ giả mang đến điềm may mắn hay đen đủi cho cả năm. Gia chủ trong năm đó gặp may mắn hay gặp hạn thường nhớ ngay đến người đầu tiên xông đất cho nhà mình. Đó chính là lí do khiến người xông đất có ý nghĩa rất quan trọng trong ngày đầu năm mới.

Vì vậy, đây được coi là vị thần hộ mệnh của gia đình, làng xã, chủ về đất đai và phù hộ cho con người. Và hầu như đa số các gia đình Việt Nam dù giàu hay nghèo cho đến nay khi chuyển nhà, xây nhà mới, tậu đất mới,…đều không thể thiếu nghi lễ cúng Thổ công. Thậm chí, những pho tượng Thần Tài hay Ông Địa còn được bày bán để người mua nó về tăng thêm phần may mắn. Điều đó càng chứng tỏ rằng tín ngưỡng thờ thần Đất là một trong những tín ngưỡng không thể thiếu trong đời sống văn hóa của người Việt.

Tiểu kết

Trong từ điển biểu tượng văn hóa thế giới, J.chevalier, A.lain Gheer brant cho rằng: Ý nghĩa của một biểu tượng không phải là cấu trúc khép kín mà là một khả năng gợi ra các chiều liên tưởng trong thực tại tinh thần của con người, những chiều hướng này có thể rất khác nhau, trái ngược nhau. Mỗi người có thể tìm thấy những sự trải nghiệm tinh thần mang tính cá nhân nhưng vẫn không tách rời bản chất xã hội, cái chung tinh thần chi phối toàn bộ sự vận động của chúng. Thật vậy, tìm hiểu ý nghĩa của các biểu tượng trong thần thoại ta thấy, ý nghĩa của các biểu tượng đó không phải là hằng số mà là biến số, đồng thời các biến số đó luôn có mối quan hệ mật thiết với nhau cũng như giữa cá nhân với cộng đồng dân tộc Việt trong quá trình chuyển hóa của các biến số đó.

Các biểu tượng trên đều có vị trí quan trọng trong việc khám phá và hiểu sâu hơn về thể loại văn học dân gian vừa là nghệ thuật vừa không phải nghệ thuật này. Đặc biệt là biểu tượng lửa và biểu tượng “thần khổng lồ”. Sở dĩ, chúng là biểu tượng tiêu biểu bởi: thứ nhất, thần thoại là sáng tác của người nguyên thủy, phản ánh trạng thái sinh hoạt vật chất và tinh thần của con người trong buổi sơ khai lịch sử. Thần thoại về những vị thần khổng lồ, về sự hình thành vũ trụ, thiên nhiên,..khi đó tư duy thần thoại đã lấy con người làm mẫu, nên các thần đều mang bóng dáng của con người, họ cũng phải lao động vất vả mới biến cải được thế giới tự nhiên cũng như kiến tạo vũ trụ. Thứ hai, từ tâm thức đó mà các thần chính là sản phẩm của niềm tin và sự sùng bái tự nhiên đan cài với nhận thức có tính vật chất về thế giới. Hơn nữa, riêng với biểu tượng lửa thì đây là cái đã được người tiền sử phát hiện cách đây nhiều nghìn năm. Nó được coi là một bước tiến quan trọng trong sự văn minh tiến bộ của  loài người. Điều đó có thể giúp ta lí giải tại sao rằng hai biểu tượng này lại xuấ hiện nhiều như vậy.

Biểu tượng trong thần thoại người Việt mang tính quan niệm, tính ổn định. Có thể thấy, sự hiện thực hóa của các biểu tượng được thể hiện trong các hình thức biểu hiện và ý nghĩa biểu trưng. Giữa các hình thức biểu hiện và ý nghĩa này có mối quan hệ gắn bó tương tác, không tách rời và có mối quan hệ hữu cơ với nhiều mặt trong đời sống xã hội người Việt như phong tục, tập quán, tôn giáo, tín ngưỡng,…Như vậy, các biểu tượng trên là các biểu tượng đa nghĩa và đa dạng trong cách biểu hiện. Và dường như càng khám phá chúng, ta thấy ý nghĩa của nó chưa bao giờ dừng lại mà luôn luôn ẩn giấu, phát hiện theo thời gian. Và đến nay, ta thấy vẫn còn rất nhiều biểu tượng mà chưa bao giờ ý nghĩa của nó vơi cạn hay mất dần đi sự phong phú. Ở mỗi giai đoạn ý nghĩa của nó lại chứa đựng những điều mới mẻ mà con người cần phải đi sâu mới khám phá được nó.

II. NGHỆ THUẬT XÂY DỰNG BIỂU TƯỢNG VỀ QUYỀN LỰC TRONG THẦN THOẠI NGƯỜI VIỆT

Đối với người đời sau, thần thoại không những có giá trị như những tài liệu quý cho các lĩnh vực dân tộc học, sử học, lịch sử tôn giáo,…mà còn có những hình tượng nghệ thuật độc đáo vì đã được sản sinh trong những điều kiện xã hội vĩnh viễn không bao giờ trở lại nữa. Từ các hình tượng nghệ thuật đó thì giá trị văn hóa cũng đồng thời được sản sinh ra trong cùng quá trình.

2.1. Tính hệ thống của các biểu tượng

Biểu tượng là bất cứ cái gì mang một ý nghĩa cụ thể được các thành viên của một cộng đồng người nhận biết. Âm thanh, đồ vật, hình ảnh, hành động của con người và cả những ký tự đều là biểu tượng văn hóa. Biểu tượng văn hóa thay đổi theo thời gian và cũng khác nhau, thậm chí trái ngược nhau trong những nền văn hóa khác nhau. Có thể nói, yếu tố cốt lõi của văn hoá chính là hệ thống các biểu tượng, nó được xem là “tế bào” của văn hoá. Cách tiếp cận văn hoá bằng các hình thái biểu tượng không có sự đối lập hoàn toàn với các cách tiếp cận văn hoá khác. Bởi ở góc độ nào đó để nghiên cứu về văn hoá đi chăng nữa thì văn hoá không có gì khác là toàn bộ sự hiểu biết của con người tích luỹ được trong quá trình hoạt động thực tiễn – lịch sử được đúc kết thành các giá trịchuẩn mực xã hội.

Thần thoại là sản phẩm của xã hội cộng sản nguyên thuỷ. Thần thoại mang nhiều tính chất hoang đường nhưng con người cũng gửi gắm vào đó lòng khao khát tìm hiểu vũ trụ, vươn lên trong lao động và đấu tranh, chắp cánh cho tâm hồn con người bay bổng với những ước mơ cao đẹp. Đọc những câu chuyện thần thoại ta bắt gặp hình ảnh của những vị thần khoẻ khoắn, mạnh mẽ, và đầy uy lực. Mặc dù các biểu tượng quyền lực trong thần thoại không được phong phú đa dạng bằng các thể loại sau này của văn học dân gian. Nhưng nó lại chính là các biểu tượng làm cơ sở, nền tảng của các biểu tượng sau này được bổ sung và hoàn thiện hơn. Sự ra đời của hàng loạt các vị thần để giải thích cho sự lí giải các hiện tượng tự nhiên thời đó tạo thành hệ thống các biểu tượng quyền lực với chức năng khác nhau.

Trong luận văn này, chúng tôi đã khảo sát được bốn biểu tượng quyền lực tiêu biểu nhất trong thần thoại đó là nước, lửa, đất và “thần khổng lồ” tự nhiên. Các biểu tượng này lần lượt xuất hiện trong những câu chuyện thần thoại với những câu chuyện lí giải đặc sắc. Số lượng câu chuyện nói đến biểu tượng nước là sáu, biểu tượng lửa là sáu, biểu tượng đất là năm và biểu tượng thần khổng lồ cũng là năm. Thông thường, số lần xuất hiện của một biểu tượng nào đó thể hiện vai trò chủ đạo của nó trong tác phẩm. Tuy nhiên, qua khảo sát bước đầu và việc phân tích ý nghĩa của các biểu tượng ở chương hai, ta nhận thấy rằng: mỗi biểu tượng có một vai trò nhất định hay đó cũng là vai trò của các vị thần trong việc thể hiện quyền lực riêng của mình. Mỗi biểu tượng thể hiện một khía cạnh nội dung câu chuyện thần thoại. Và giữa chúng có mối quan hệ khăng khít không trái ngược nhau mà thậm chí còn bổ sung cho nhau. Ngoài ra còn thống nhất với nhau để tạo nên hệ thống các thiên thần thoại với số lượng tác phẩm cũng như nội dung đa dạng, hấp dẫn về thể loại sáng tạo nghệ thuật “vô ý thức”.

Ta nhận thấy các hệ thống biểu tượng văn hóa – dân tộc đã hàm chứa trong lòng nó những giá trị tư tưởng hết sức sâu sắc và đầy hàm súc, nó thể hiện được tâm lý dân tộc trong quá trình chọn lựa một kiểu ứng xử, một kiểu quan hệ với nhau trong đời sống văn hóa – xã hội. Từ đó, ta có thể hiểu thêm phần nào về bản sắc văn hóa cổ truyền Việt Nam được định hình ở một nền văn minh lúa nước và một nền văn hóa làng xã. Để có thể nắm bắt một cách đầy đủ và chuẩn xác về bản sắc của một nền văn hóa nói chung cũng như bản sắc văn hóa dân tộc Việt Nam nói riêng, chúng ta không chỉ thông qua một vài biểu tượng đơn lẻ mà có thể kết luận ngay điều đó, mà còn phải đi sâu nghiên cứu một cách nghiêm túc toàn bộ các hệ thống biểu tượng truyền thống từ trong các huyền thoại, lễ hội, văn hóa và nghệ thuật dân gian cho đến các khuôn mẫu ứng xử ,… Có như vậy, mới có thể khái quát một cách chính xác về bản sắc văn hoá dân tộc. Điều đó đồng nghĩa với việc, khi đi giải mã các biểu tượng chúng ta không chỉ đặt nó trong tác phẩm mà còn đặt nó soi chiếu dưới góc nhìn văn hóa để thấy được sự thống nhất nhiều mặt của nó.

Trong sự vận hành của tâm thức con người, điều gì cổ xưa, điều đó linh thiêng. Thần thoại vì thế vẫn là nơi mơ mộng quyến rũ của con người thời hiện đại. Người ta tìm thấy ở đó những kinh nghiệm đã mất, những tri thức hiện đại đến ngỡ ngàng, và hơn hết, là một lối tư duy độc đáo. Từ việc nghiên cứu một cách tổng thể và chi tiết lối tư duy này, có thể tái tạo được hình dung về thế giới của tổ tiên từ nguyên thủy.

Vì thần thoại là sự kết tinh và nghệ thuật hóa những quan niệm cổ xưa về thế giới và sự tôn sùng tự nhiên. Từ niềm tin vào thế giới tự nhiên thần thánh đó mà người ta sáng tạo thần thoại và thực hành tín ngưỡng nguyên thủy. Từ đó thấy được mối quan hệ khăng khít dường như không thể tách rời giữa thần thoại với tín ngưỡng và nghi lễ. Người ta diễn xướng thần thoại về các thần trong nghi lễ thờ cúng, tế lễ các thần và ngược lại, khi tế lễ các thần không thể thiếu được việc các chuyện về thần.

2.2. Kết cấu, cốt truyện

2.2.1. Kết cấu

Như chúng ta đã biết, trong một tác phẩm văn học, dù dung lượng của nó lớn hay nhỏ cũng đều là những chỉnh thể nghệ thuật, bao gồm nhiều yếu tố, bộ phận,…Tất cả các yếu tố, bộ phận đó được nhà văn sắp xếp, tổ chức theo một trật tự, hệ thống nào đó nhằm biểu hiện một nội dung nghệ thuật nhất định, gọi là kết cấu. Đây là một trong những khái niệm, phạm trù phổ quát trong cả đời sống lẫn văn học. 

Theo Từ điển thuật ngữ văn học, “Kết cấu là toàn bộ tổ chức tác phẩm mang tính độc đáo, sinh động, gợi cảm” và“liên kết theo sự phát hiện đời sống và suy nghĩ của nhà văn, tạo thành một hệ thống liên kết, tạo ra hiệu quả tư tưởng thẩm mĩ” [14. 296]. Tuy nhiên, tùy vào cách thức phản ánh hiện thực của mỗi thể loại mà có sự tổ chức, xây dựng kết cấu của tác phẩm khác nhau. Bời vậy, so với các thể loại truyện kể dân gian khác, cốt truyện và kết cấu của thần thoại có phần đơn giản hơn. 

Kết cấu ban đầu của truyện thần thoại khá đơn giản, chủ yếu thể hiện sự nhận thức và lí giải thế giới một cách giản đơn, ngây thơ. Phần lớn ở cốt truyện này thường có kết cấu đơn: một thần – một nhân vật – một hành động; mỗi truyện kể về một vị thần gắn với một quyền lực nhất định. Nhân vật thường xuất hiện đột ngột trong cõi hỗn mang, hình dạng khổng lồ, thực hiện công việc của người sáng tạo ra thế giới. Kết cấu này chủ yếu là những thần thoại kể về nguồn gốc của vũ trụ, thiên nhiên như: Thần trụ trời, thần mưa, thần gió,…

Sau đó, thần thoại được truyền thuyết hóa với các trường hợp các tác phẩm  Sơn Tinh – Thủy Tinh hay Thánh Gióng, Con rồng cháu tiên,…Dựa vào sự lí giải cũng như những căn cứ khác nhau mà họ xếp tác phẩm là thể loại thần thoại hay truyền thuyết. Một khi tác phẩm thần thoại được truyền thuyết hóa thì nó không đơn giản chỉ là kết cấu đơn mà là các kết cấu chuỗi. Với kiểu kết cấu này thì nhân vật lịch sử là nhân vật trung tâm, còn các nhân vật khác là nhân vật phụ. Ví dụ truyện Sơn Tinh- Thuỷ Tinh thì hai nhân vật này là nhân vật chính còn nhân vật Hùng Vương vẫn là nhân vật phụ.

2.2.2. Cốt truyện

Có thể nói, cốt truyện có vai trò vô cùng quan trọng, là yếu tố hạt nhân để bộc lộ nội dung, chủ đề, tư tưởng tác phẩm. Đúng vậy, cốt truyện là một hệ thống cụ thể những sự kiện, biến cố, hành động trong tác phẩm tự sự và tác phẩm kịch thể hiện mối quan hệ qua lại giữa các tính cách trong một hoàn cảnh xã hội nhất định nhằm thể hiện chủ đề tư tưởng của tác phẩm. 

Theo Từ điển thuật ngữ văn học, “Cốt truyện là hệ thống các sự kiện cụ thể được tổ chức theo yêu cầu tư tưởng và nghệ thuật nhất định, tạo thành bộ phận quan trọng nhất trong hình thức động của tác phẩm văn học thuộc các loại hình tự sự và kịch” [ 14. 88]. 

Với định nghĩa trên, cốt truyện được hiểu trong tác phẩm văn học thuộc loại hình kịch và tự sự. Còn trong các tác phẩm truyện dân gian, tiêu biểu là thể loại thần thoại thì cốt truyện được thể hiện khá đơn giản. Hầu như các tác phẩm của thể loại này đều mang cốt truyện đơn với một thần – một nhân vật – một hành động – một quyền lực, một vài truyện mang cốt truyện xâu chuỗi. Cùng với đó, trong thần thoại Việt Nam cũng có những trường hợp một cốt truyện nhiều chủ đề. Cốt truyện là cốt truyện đơn, song đã thêm những tình tiết, biến cố, sự kiện,…ở kết cấu này phần lớn là chủ để về Nguồn gốc loài người, chủ đề Hồng thủy, Quả bầu,…hiện tượng phức hợp chủ đề trong thần thoại phản ánh sự đa dạng, nhiều tầng chồng chất lên nhau trong quá trình lưu truyền. Chính điều này đã tạo nên tính đa nghĩa ở một số thần thoại như: Sơn Tinh Thủy Tinh, Thánh Gióng,…

Một dạng kết cấu khác của thần thoại là, một cốt truyện mang hình thức liên kết của nhiều cốt truyện đơn, làm nên một hệ thần thoại. Ở kết cấu này chủ yếu là của những áng sử thi, thần thoại lớn như: Họ Hồng Bàng, Đẻ đất đẻ nước, Đam san,…Như vậy, do ra đời từ thời khởi thủy của xã hội loài người, giai đoạn mà ý thức con người chưa phát triển nên cốt truyện, kết cấu của thần thoại có phần đơn giản, phiến diện một chiều. Tuy nhiên, ở một mức độ nào đó ta cũng thấy được sự cố gắng của con người trong việc lí giải các hiện tượng, nguồn gốc của thế giới.

2.3. Hình tượng nhân vật

Thần thoại là truyện kể về các vị thần và những điều thần bí, là hình thức nhận thức thế giới đặc trưng của con người thời cổ. Thông qua sự thần thánh hóa và mĩ hóa các hiện tượng tự nhiên và xã hội, con người đã gửi gắm khát vọng giải thích tự nhiên, xã hội và ước mơ chinh phục thế giới đó. Có thể nói, những vấn đề trên không chỉ được thần thoại quan tâm như là một phương thức nhận thức thực tại khách quan đặc biệt mà ở những phương thức khác như: phương thức tôn giáo, phương thức nghệ thuật, phương thức triết học, phương thức khoa học,…cũng là những điều mà họ tìm cách lí giải. 

Bởi vậy, thần thoại là thể loại văn học dân gian ra đời sớm nhất. Nó không phải chỉ là văn học dân gian mà còn là tôn giáo, triết học, khoa học, lịch sử, kinh nghiệm, ứng xử tự nhiên,… của người nguyên thủy. Hình tượng thần quyền lực trong thần thoại chính là sự sáng tạo nghệ thuật vô ý thức phản ánh một cách chân thực nhận thức thế giới của người xưa. Thông qua hàng loạt hình tượng thần, ta có thể hiểu được quan niệm thực tế và quan niệm thẩm mĩ của con người.

2.3.1. Thần và cơ sở hình thành hình tượng nhân vật thần quyền lực trong thần thoại người Việt

2.3.1.1. Thần là gì?

Trong những câu chuyện thần thoại, hình tượng thần là hình tượng trung tâm, đó cũng là trung tâm của sự sáng tạo nghệ thuật của thần thoại. Vì đây là thể loại văn học dân gian ra đời sớm nhất khi xã hội loài người tương đối bình đẳng. Xã hội thời đó chưa có sự phân biệt đẳng cấp nặng nề, các vị thần vì thế vẫn còn bình đẳng trên điện thờ thần linh. Phải chăng, không khí dân chủ, bình đẳng và tự do đó đã thổi vào thần thoại nguồn sinh lực phơi phới tạo nên những hình tượng nghệ thuật khoáng đạt, đẹp đẽ, bề thế hơn bất kì sự hư cấu có mục đích nào. Chính vì vậy, hình tượng thần trong thần thoại các dân tộc vừa lơn lao, kì vĩ, vừa phóng khoáng mạnh mẽ, trở thành những hình tượng nghệ thuật mang vẻ đẹp tuyệt vời mà các thời đại sau khó có thể bắt chước.

Tác giả Đỗ Bình Trị đã từng khẳng định trong về vai trò trung tâm của hình tượng các vị thần. Ông cho rằng: “Trong thần thoại, thế giới là thế giới các thần, “nhân vật” trong đó là các vị “thần”, con người chưa có vai trò gì. Đến sử thi, lần đầu tiên, con người mới thực sự xuất hiện và là nhân vật trung tâm, tuy thế giới các “thần” vẫn ngự trị. Các vị thần trong thần thoại là sản phẩm của quan niệm vạn vật đều có linh hồn, quan niệm “thần” và người đồng hình, đồng tính…của tư duy vốn mang những nét đặc thù của người thời cổ

Và cũng theo ông: từ “thần” phải được đặt trong dấu ngoặc kép, vì hai lẽ: thứ nhất để tránh lẫn lộn với những khái niệm thần, thánh, Ngọc Hoàng…của các tôn giáo đời sau và thứ hai  để có một tên gọi chung cho cả “họ nhà thần” (chữ dùng của Nguyễn Đổng Chi) mà tên gọi cụ thể ở các văn bản thần thoại hết sức linh tinh tuỳ theo cách gọi của các đời sau, các địa phương, các dân tộc…và các nhà biên soạn (như ông, bà, thánh thần,…). Như vậy cần hiểu khái niệm “thần” trong thần thoại trên cơ sở quan niệm vạn vật hữu linh của người thời cổ và tránh những suy diễn đơn thuần dựa vào các tên gọi trong văn bản.

2.3.1.2. Cơ sở hình thành hình tượng nhân vật thần quyền lực trong thần thoại người Việt

Nhân vật trong thần thoại, hầu hết có nguồn gốc từ thiên nhiên, là lời giải thích cho chính nguồn gốc mà họ sinh ra. Bởi vậy, chúng tôi cho rằng cơ sở hình thành hình tượng nhân vật thần trong thần thoại được hình thành từ ba nguồn chủ yếu. Một là từ mối mâu thuẫn lớn giữa khát vọng giải thích các hiện tượng tự nhiên với hiểu biết thấp kém về thế giới tự nhiên của con người thời cổ. Hai là khát vọng vươn lên chiếm lĩnh, ngự trị thế giới tự nhiên, chinh phục thế giới tự nhiên của con người. Ba là từ khát vọng giải thích các mối quan hệ mới nảy sinh và ngày càng đa dạng giữa con người với chính mình, với người khác và với cộng đồng khác ở buổi sơ khai.

* Xuất phát từ sự mâu thuẫn lớn giữa khát vọng giải thích các hiện tượng tự nhiên với hiểu biết thấp kém về thế giới tự nhiên của con người thời cổ. 

Theo Đinh Gia Khánh, thì ở nước ta “Thần thoại đã nảy sinh từ cuộc sống của người nguyên thuỷ và phát triển theo yêu cầu của xã hội Lạc Việt”, có nghĩa là thần thoại có từ trước công nguyên. Đồng quan điểm như trên, các nhà nghiên cứu Đỗ Bình Trị, Chu Xuân Diên cũng đưa ra các ý kiến: “Nói một cách đơn giản thần thoại là một loại truyện nói về thần, mang yếu tố thiên nhiên và xuất hiện vào thời kì khuyết sử” và “Thần thoại chỉ có thể xuất hiện trong giai đoạn thấp của sự phát triển xã hội và sự phát triển nghệ thuật. Trong giai đoạn đó, thần thoại đã có một vai trò tích cực trong đời sống tinh thần của con người: đó là phương tiện nhận thức quan trọng của người nguyên thuỷ, cũng là một trong những nguồn hình thành những giá trị tinh thần truyền thống đầu tiên của dân tộc”.

Cơ sở đầu tiên dẫn đến sự ra đời của Thần thoại là sự phát triển của xã hội công xã nguyên thủy khi con người đã xuất hiện tư duy và hoạt động ngôn ngữ. Con người thời kỳ nguyên thuỷ trong khi tiếp xúc với thiên nhiên, tiếp xúc với các hiện tượng vũ trụ kỳ bí, họ đã muốn cố gắng tìm hiểu, xuyên qua cái bề ngoài để nhận thức thế giới, nhận thức tự nhiên. Sự nhận thức thế giới của con người lúc đó là hoang đường và ấu trĩ.

Tự nhiên là lực lượng vừa to lớn, vừa bí ẩn, luôn mang những tai họa bất ngờ đổ ập xuống cuộc sống của con người và thậm chí là xóa đi tất cả. Từ đó, họ đã biết nương theo tự nhiên hoặc chế ngự tự nhiên để tồn tại. Tự nhiên đã đặt ra cho con người rất nhiều câu hỏi mà tri thức nông cạn hồi đó của họ chưa thể giải thích được. Và những gì con người chưa đủ sức giải đáp mà đa số là các hiện tượng tự nhiên, họ đều gán cho nó một vị thần và tin vào sự tồn tại, có quyền lực tuyệt đối chi phối mọi việc của các vị thần đó.

Những lực lượng thiên nhiên mà người ta không hiểu được, không chi phối được đều có thể là thần, nghĩa là có sức mạnh vượt ra ngoài khuôn khổ bình thường, ra ngoài sự tưởng tượng của con người. Thần có thể thiện, có thể ác, có khi dịu hiền nhưng thường thì uy nghiêm và lắm khi lại giận dữ thậm chí thích trả thù. Con người ta không thể lường trước được công việc của thần, càng không thể chống lại thần mà chỉ còn cách quy phục, sùng bái các thần. Vì thế C. Mác đã gắn thần thoại với thời kỳ “thơ ấu” của loài người, là “nghệ thuật vô ý thức” của con người thời nguyên thuỷ và nhận định: “thần thoại nào cũng chinh phục, chi phối và nhào nặn những sức mạnh tự nhiên ở trong trí tưởng tượng và bằng trí tưởng tượng”.

Với các hiện tượng tự nhiên chưa thể giải thích được, chưa lí giải nguyên nhân vì sao như vậy thì người nguyên thủy gán nguyên nhân của hiện tượng trên cho một lực lượng siêu nhiên, một vị thần có quyền năng tuyệt đối. Chẳng hạn để giải thích các hiện tượng như thủy triều, sấm sét, rét tháng Ba, mưa,…người xưa cũng sáng tạo ra hình tượng các vị thần chi phối, tạo ra các hiện tượng đó. Nếu như ngày nay khoa học, kĩ thuật hiện đại cho chúng ta biết rằng: nguyên nhân của hiện tượng thuỷ triều là do ảnh hưởng sức hút của mặt trăng, nguyên nhân gây ra sấm sét là do hai luồng điện trong không gian gặp nhau gây thành tiếng nổ mà chỉ thấy sét có sức mạnh ghê gớm như có thể đánh chết người, làm cháy nhà, đổ cây. Thì thời đại đó thì thần Biển, thần Sét đã được ra đời trong sự sợ hãi, ngưỡng mộ sức mạnh tự nhiên của người xưa để giải thích hiện tượng trên.

Cùng với đó, để giải thích hiện tượng rét tháng ba, thì người xưa cũng gán cho nó nguyên nhân như vây là do lực lượng siêu nhiên đó là do Ngọc Hoàng vì thương con: “Nàng Bân đan áo cho chồng/ Đan ba tháng ròng mới được cái tay “; Ngọc Hoàng cho làm rét lại mấy hôm. Trong khi đó thì hiện tượng này được giải thích dưới con mắt thời nay như sau: “Miền Bắc cực lạnh giá, là những biển băng rộng mênh mông. Băng đóng suốt mùa đông dày hàng chục thước. Vào khoảng cuối mùa đông đầu mùa xuân, lúc mặt trời xuất hiện ở chân trời, những tia nắng ấm của mặt trời toả xuống quả đất, xuống Bắc cực, làm băng tan dần. Băng tan cần phải có nhiều nhiệt lượng. Cũng như khi ta cầm một cục nước đá đang chảy thì thấy tay lạnh buốt. Nước đá chảy đã hút nhiệt lượng ở bên ngoài, trong đó có nhiệt lượng toả ra ở tay chúng ta. Băng ở Bắc cực tan đã hút nhiệt lượng ở xung quanh và làm cho không khí trở nên rét lạnh. Cho nên những ngày băng tan là những ngày lạnh nhất. Hơi lạnh tràn về phía Nam gây ra những trận rét vào khoảng tháng ba âm lịch”.

Với hiện tượng mưa nhiều hay mưa ít cũng vậy. Họ biết được tính chất của mưa: mưa thì tốt nhưng không đều thì có thể gây ra hạn hán hay lũ lụt. Nhưng họ lại không thể giải thích được vì sao lại có mưa, mưa là do đâu? Bởi vậy, họ cho rằng: mưa không phải là do trời, không phải là “nước mắt của ả Chức chàng Ngưu” mà chính là nước đi từ sông biển rồi lại trở về sông biển “thần mưa thường xuống hạ giới hút nước sông nước biển rồi lại trở về sông biển” (Thần Mưa). Trong thực tế, hiện tượng này là do nước ở hồ, ao, sông, biển bốc hơi lên cao gặp lạnh đọng lại, khi nặng rơi xuống thành mưa.

Vì không hiểu bản chất các hiện tượng họ đã diễn đạt sự yếu đuối và bất lực của mình trước tự nhiên bằng những hình ảnh kỳ quái của tưởng tượng. Hình tượng các thần chính là biểu hiện cho những lực lượng bên ngoài thống trị họ. Vì vậy hình tượng nhân vật thần trong thần thoại đã ra đời trên cơ sở sự tôn sùng tự nhiên của dân gian.

* Xuất phát từ khát vọng vươn lên chiếm lĩnh, ngự trị thế giới tự nhiên, chinh phục tự nhiên.

Cùng với hình tượng thần được xây dựng từ niềm tin thần thoại vào thế giới tự nhiên, trong quá trình lao động sản xuất, khắc phục sức mạnh tự nhiên, người nguyên thủy đã khám phá ra một số quy luật của nó. Chẳng hạn, trời hết đêm lại sáng, ban ngày có mặt trời còn ban đêm mặt trăng dịu dàng; mặt đất luôn luôn chuyển qua bốn mùa xuân, hạ, thu, đông; những cây trồng khác nhau có những  thời vụ nhất định để tươi tốt, ra hoa kết trái hay héo tàn,…Con người một mặt biết nương theo tự nhiên để sống hài hòa thì mặt khác cũng bắt đầu chế ngự được một số thế lực bí ẩn của nó. Họ không chỉ biết tôn sùng tự nhiên mà còn có khát vọng chống lại thế lực hung ác ấy. Và để giải thích hiện tượng mặt trăng ở trên cao thì người nguyên thủy cho rằng do có lực lượng chế ngự nên mặt trăng sợ không dám sà xuống. Đó là: Chàng Quải ném cát vào nữ thần Mặt Trăng, cô ta hốt hoảng vội vụt bay lên cao, lảng ra xa chỗ Quải đứng. Từ đó trở đi cô không dám sà xuống gần mặt đất nữa. Hay câu chuyện Cường Bạo đại vương dám kiên cường và mưu trí chống lại thần sét; Thần Sét có sức mạnh ghê gớm nhưng có phen bị một anh chàng dân thường đánh cho một trận nên thân. Cóc, cáo, gấu, cọp hợp quần đã đánh bại các thiên thần và làm cho Ngọc Hoàng run sợ vì mưu cơ và trí dũng (Cóc kiện trời)….Điều đó khiến con người đầy tự hào khi chiêm ngưỡng bức chân dung của chính mình, nhìn thấy sức mạnh của mình trong tập thể. 

Từ đó, những người anh hùng cộng đồng được nhân dân tôn thành thần thánh, ngưỡng mộ họ như là đại diện thần linh của cộng đồng. Đúng vậy, nhà nghiên cứu người Nga, M. Gorki đã nhận xét: “Trong trí tưởng tượng của người nguyên thủy, thần không phải là cái gì trừu tượng mà là một nhân vật có thực, được trang bị bằng công cụ lao động nào đó. Thần là bậc thầy ở nghề này hay nghề khác, thần là sự khái quát nghệ thuật của những sự tiến bộ lao động,…”.

Người xưa luôn ước mơ khám phá, tìm hiểu vũ trụ. Điều đó cho thấy trí tưởng tượng của họ thật táo bạo, khát vọng chiến thắng của họ thật mãnh liệt. Như vậy, nằm trọn vẹn trong một hình thái kinh tế xã hội “một đi không trở lại” hình tượng nhân vật thần đã ra đời trên cơ sở sự tôn sùng tự nhiên và khát vọng khám phá tự nhiên của dân gian.

* Xuất phát từ khát vọng giải thích các mối quan hệ mới nảy sinh và càng đa dạng giữa con người với chính mình, với người khác và với cộng đồng khác ở buổi sơ khai.

Thế giới vật chất, tinh thần luôn luôn vận động theo những quy luật tự nhiên. Và con người, sinh vật bé nhỏ trong vũ trụ bao la cũng không nằm ngoài các dòng chảy vô tận, vô biên đó. Khám phá để rồi nhận thức đúng đắn những quy luật tự nhiên chi phối toàn bộ vì đời sông là một quá trình phát triển của tri thức nhân loại. Ở thời kì đầu của loài người, cũng trong quá trình sinh tồn và phát triển con người ngày càng có ý thức về bản thân và cộng đồng mình, họ cũng nhận thức được quy luật của chính bản thân như: con người phải trải qua “sinh, lão, bệnh, tử” như một vong tuần hoàn, con người cũng có yêu ghét, ghen tuông, đố kị, có bất hòa, chiến tranh, có hy vọng,…Nhưng để giải thích được điều đó thì lại không phải là điều dễ dàng. Bởi vậy, không còn cách giải thích nào khác hơn là lại dựa vào chính sự chi phối của các thần. 

Với họ, con người sinh ra nhờ mười hai bà mụ, lớn lên nhờ thần sức khỏe, lấy vợ lấy chồng nhờ thần tình yêu, sống vui vẻ nhờ thần hy vọng, hay ghen ghét, đố kị nhau do thần bất hòa, hết số trời thì cho thần chết sẽ đến đón về thế giới khác. Và từ lúc sinh ra cho đến lúc chết đi, người xưa luôn sống trong sự hư ảo cùng với sự xuất hiện các thần. Song không phải đất nước nào trên thế giới cũng có thần thoại, nó chủ yếu xuất hiện ở một số dân tộc có những câu chuyện thần thoại phong phú như Hy Lạp hay Ấn Độ.  Còn thần thoại của chúng ta chủ yếu phản ánh những vấn đề thuộc thế giới tự nhiên với những vị thần quyền lực cho hiện tượng tự nhiên đó.

2.3.2. Đặc điểm của hình tượng nhân vật thần quyền lực

Đề tài chủ yếu của thế giới thần thoại là hướng tới thế giới tự nhiên và mối quan hệ của nó với đời sống con người. Truyện thần thoại thường kể về các vị thần có sức mạnh và quyền lực. Nhân vật chính của thần thoại là thần và bán thần. Tác giả dân gian đã mượn các thần để giải thích các hiện tượng thiên nhiên (Thần Mưa, Thần Gió, Thần Biển), giải thích nguồn gốc vũ trụ (Thần Trụ Trời), nguồn gốc loài người (Truyện đẻ trăm trứng) và muôn vật. Cách giải thích của người xưa tuy còn ấu trĩ và tự phát nhưng ta vẫn có thể nhận ra những yếu tố duy vật biện chứng; thể hiện khả năng của con người trong việc nhận thức thế giới. Người nguyên thuỷ nhận thức được một cách mơ hồ và cảm tính một số quy luật của tự nhiên: Ngày và đêm, sống và chết, sự tồn tại của thế giới vật chất…Quá trình giải thích tự nhiên, con người đã tự nâng mình lên tầm cao của thần thánh ( công việc khai thiên lập địa, tạo ra đất, nước, núi, sông được thần tượng hoá qua Thần Trụ Trời).

2.3.2.1. Về ngoại hình

Thần thoại phản ánh mối quan hệ chủ yếu giữa con người với tự nhiên. Tư duy hồn nhiên, ấu trĩ của người xưa chỉ có thể đặt các thần tự nhiên trong sự đối sánh với thiên nhiên khổng lồ và kì vĩ. Vì vậy, trong thần thoại, các vị thần luôn có hình thức khổng lồ, đồ sộ, mô phỏng sự đồ sộ của tự nhiên, vũ trụ.

Để xây dựng nhân vật thần thoại, biện pháp chủ yếu của người nguyên thủy là thần thánh hóa và nhân cách hóa các hiện tượng tự nhiên. Đây là biện pháp nghệ thuật “Vô ý thức” bắt nguồn từ thế giới quan thần thoại, nghĩa là thế giới quan thần linh. Người ta cho tất cả mọi vật, mọi hiện tượng trong thiên nhiên đều có hồn, có thần. Thậm chí nhiều nhân vật thần cũng có dáng dấp, tính cách lấy từ khuôn mẫu con người. Nét đẹp khỏe mạnh của biết bao người nguyên thủy đã kết tinh thành vẻ ngoài kì vĩ của hình tượng các thần. Ngoại hình của các nhân vật thần được mô phỏng theo kích thước của vũ trụ, non sông. Và điều đó chứng tỏ rằng trong quan niệm của người xưa, con người và thiên nhiên dường như được hòa vào làm một khối.“Các nhân vật có nguồn gốc thiên nhiên, vũ trụ không có hình hài rõ ràng, vô hạn định, hành động của thần thì biến hóa khôn lường, đi mây về gió, thoắt biến, thoắt hiện, hành động của thần là nguyên nhân của các hiện tượng tự nhiên. Hành động đó vừa có yếu tố thực vừa có yếu tố hoang đường. Yếu tố thực lấy từ các hoạt động của con người, yếu tố hoang đường là màu sắc thần thánh là cách lý giải ngây thơ về các hiện tượng tự nhiên, xã hội”.

Đúng vậy, hình dạng của nhân vật thần mang tầm cỡ vũ trụ. Lớp nhân vật thần thoại có nguồn gốc thiên nhiên vũ trụ không có hình hài rõ ràng, vô hạn định. Thần có thân hình to lớn kỳ vĩ chính là sự mô phỏng sự to lớn của tự nhiên. Thần Trụ Trời được tác giả dân gian miêu tả là một ông thần có thân hình to lớn không biết bao nhiêu mà kể,chân thần bước cứ như bây giờ từ tỉnh này qua tỉnh nọ hay đỉnh núi này sang đỉnh núi kia. Chính thân thể, ngoại hình to lớn của thần đã giúp thần có sức mạnh vô địch để làm công việc vô cùng quan trọng: khai thiên lập địa, phân khai trời đất. Bên cạnh hình tượng to lớn Thần Trụ Trời của người Việt, các dân tộc anh em cũng có những vị thần đặc biệt như: Pú Cáy (Tày) khi ngủ, lấy một quả núi làm gối gối đầu.

Rơ Xí (Xê Đăng) thân hình to lớn như trái núi, bàn chân thần đặt đến đâu là mặt đất lõm xuống thành ao hồ. Tầm Thênh trong thần thoại Chăm thì to lớn đến mức, đầu thần ở trong nhà, thân ưỡn ra cả cánh đồng mênh mông, chân dài đến bờ biển,…

Có thể nói, mỗi vị thần trong thần thoại đều ngự trị, cai quản, điều khiển, có quyền lực của mình trên một lãnh địa nhất định. Có những vị thần gần gũi với con người, nhưng cũng có những vị thần khiến con người theo ý niệm tôn sùng nhưng vẫn có sự sợ hãi trong đó. Sau thần Trụ trời phân khai trời đất, thì có một số thần khác được phân công hoặc lên trời, hoặc xuống đất để tiếp tục công việc kiến thiết ra thế giới như: nào thần đào sông, nào thần tát biển, thần nghiền cát nghiền sỏi, thần trồng cây,…Vì thế mà trong dân gian, ngày nay vẫn còn thấy những câu hát lưu hành để nói lên tài năng của các thần, bên cạnh đó cũng giúp ta biết được một phần nào ông việc thuở ban đầu:

Nhất ông đếm cát
Nhì ông tát bể(biển)
Ba ông kể sao
Bốn ông đào sông
Năm ông trồng cây
Sáu ông xây rú
Bảy ông trụ trời…

Nhắc đến nơi biển cả rộng lớn xuất hiện vị thần Biển. Vị thần đội lốt một con rùa. Thân hình của thần rất to lớn, to lớn không thể nào ước lượng được. So với các vị thần khác thì thần Biển có những điểm khá đặc biệt: Thần nằm yên lặng một nơi ở ngoài biển Đông xa xôi, không ăn uống, không làm lụng, không ngủ. Với bề ngoài như vậy, người đọc hoàn toàn có thể hình dung được đó chính là sự mô phỏng cái vĩ đại, bao la của biển cả rộng lớn mà chúng ta vẫn thường hay thấy về nó. Khác với thần Trụ trời, Thần Biển, thần Núi là một vị thần khá gần gũi với con người. Thần thường hiện hình là những ông già tóc bạc. Mọi thú vật cây cối đều thuộc dưới quyền thần. Vì vậy người ta rất kính trọng thần Núi. Đặc biệt là thần Tản Viên thì hay can thiệp vào mọi việc, giúp người đời mỗi khi nguy nan. Chúng ta thấy rằng, núi non là đại diện cho những gì to lớn của tự nhiên. Núi được coi là nơi nối đất với trời, là cột trụ của thế giới, do đó là nơi ở của thần linh. Chính vì thế, thờ núi là một trong những tín ngưỡng bản địa cổ xưa nhất.

Nhắc đến những vị thần có thân hình đồ sộ, ta không thể không nhắc đến hai thần đực, cái; thần đực gọi là Tứ Tượng hay Khổng Lồ, thần cái gọi là Nữ Oa. Họ đều có thân hình hết sức to lớn. Hay hai ông bà Lộc Cộc – Tồ Cô đều có thân hình to lớn, đầu đội trời, vai chạm mây, chân đứng lún đá thủng đất.Hay trong truyện Bà Nữ Oa cũng có nhân vật cùng tên được giới thiệu như sau: Bà Nữ Oa là một thần khổng lồ; nam thần Tứ Tượng cũng là một thần khổng lồ.

Sau này, nhờ tình yêu lao động họ đã gắn bó và yêu thương nhau đến trọn đời. Và việc Tứ Tượng chinh phục Nữ Oa bằng điều kiện mà bà đưa ra là ai xây được một hòn núi cao hơn thì thắng; cũng đồng nghĩa với việc là họ nên vợ nên chồng để giải thích sự xuất hiện, tồn tại của những ngọn núi cao; những con suối, con sông, cái gò, quả đồi, đồng ruộng, thành nơi cư trú làm ăn sinh sống cho con người có nơi còn tồn tại cho đến ngày nay.

Mỗi thiên thần thoại là những câu chuyện riêng của các vị thần với quyền năng khác nhau. Nhưng tựu chung lại họ đều chi phối đến cuộc sống của muôn loài, nhất là loài người. Phải chăng , họ chính là hiện thân của loài người, thậm chí có tính tình, tâm địa như con người. Các vị thần này thiện có, ác có, bởi vậy con người ngoài việc tìm cách đề phòng để không bị họ làm hại thì còn tìm cách kết giao hay làm mọi cách để họ có cảm tình. Một trong những vị thần có vai trò quan trọng đối với cuộc sống con người chính là thần Nước. thần có hình thù rất vĩ đại, thần làm vua mọi giống thủy tộc. Thần nước thỉnh thoảng hóa thành người lên trên cạn giao dịch với người trần. Thần Nước hình rồng rất to lớn, ở một thế giới riêng dưới nước, có quyền phép khác thường. Cũng như thần Nước, thần Mưa cũng được miêu tả thần hình rồng, thường xuống hạ giới. Đó là cách mà con người thời xưa mượn hình ảnh của các vị thần để nói về các hiện tượng tự nhiên mà họ chưa thể lí giải được.

Khi mới nhìn vào thể loại này, chúng ta thấy nó mang đậm yếu tố thần linh vì chủ yếu viết về các vị thần quyền lực với những khả năng riêng của mình. Tuy nhiên, thế giới thần thoại cũng chính là bóng dáng của thế giới loài người buổi đầu sơ khai. Tầm vóc khổng lồ của nhân vật với trí tưởng tượng phong phú của người xưa đem đến cho chúng ta những suy nghĩ chất phác, ngây thơ của thể loại “vừa là nghệ thuật vừa không phải là nghệ thuật” này.

Thần thoại đã tạo nên cho con người Việt Nam nếp cảm, nếp nghĩ, nếp tư duy đầy hình tượng phóng đại và khoáng đạt. Một nhà nghiên cứu phương Đông người Nga M. N. Tkachốp đã có nhận xét xác đáng rằng: “Những quan điểm thần linh siêu nhiên vốn là tư duy truyền thống của người Việt Nam từ thời xa xưa và được bắt nguồn chính từ thần thoại. Những lời giải cho sự “kì lạ” không phải là quá hiếm hoi, và đã nằm trong những hoàn cảnh đã tạo nên nó. Ví như thần Gió là một hình dạng kì quặc. Thần không có đầu. Bảo bối của thần là một thứ quat màu nhiệm. Hay thần Lửa là một bà già mặt mũi hung dữ. Thần Sét thì là một vị hung dữ, mặt mũi nanh ác, quát tháo dữ dội, mình mẩy đen thui. Với trí tưởng tượng phong phú, ngây thơ, chất phác thời đó thì hình tượng thần Gió đi liền với cái quạt; thần Sét với lưỡi búa, bà Hỏa với thứ lửa rất màu nhiệm không phải để cho hạ giới dùng. Vẻ mặt của thần phần nào cũng nói lên tính chất kì dị, sự bí ẩn trong tự nhiên của lửa, sét, gió cũng như tính cách của con người thông qua đó. 

Ngoài ra hình dáng của thần cũng là hình dung của con người về cuộc sống. Mỗi thần biểu trưng cho một ý nghĩa nhất định. Trong trí tưởng tượng của dân gian, vì là người học hành tử tế nên thần Văn có hình dáng một người đứng tuổi, nghiêm trang mặc áo nhà quan, tay cầm một cái hốt. Trái ngược với thần Văn, thần Thi Cử là một vị thần xấu xí nhất, lúc nào cũng lo lắng cho việc đèn sách, không để ý đến hình thức. Người ta thường hình dung thần có mặt mũi nhăn nhó, không râu, tay trái cầm cái nghiên, tay phải cầm bút lông, người nghiêng ra trước, chân trái nhấc lên phía sau như sắp chạy, thân hình lại để trần, chỉ quấn qua một miếng vải phía dưới, còn chân phải đạp lên lưng con rùa. Thần Áo Đỏ (Hồng Y) lại luôn bao che cho những thí sinh học kém. Mỗi thần một nhiệm vụ, một chức năng, quyền hạn riêng của mình.

Giống với việc biểu trưng cho sự thành đạt, mãn nguyện của con người cho nên dân gian đã hình dung thần Tài là một ông lão béo chắc, vẻ mặt hớn hở, cười toét miệng, tay phải cầm quạt phe phẩy, tay trái cầm một cái túi đựng vàng. Ba thần Phúc, Lộc, Thọ lại được sáng tạo với hy vọng mang lại sự may mắn, hạnh phúc cho con người. Thần Thọ là một cụ già, đầu sói cao, tay phải chống gậy, tay trái cầm quả đào tiên, thường đi với một con rùa hoặc cò. Thần Lộc thường cưỡi nai, thần Phúc đi đâu cũng có dơi theo hầu.

Có ý kiến cho rằng: “Bất cứ truyện thần thoại nào cũng dùng tưởng tượng, mượn tưởng tượng để chinh phục, chi phối tự nhiên, đem tự nhiên mà hình tượng hóa”. Thật vậy, trong buổi bình minh của lịch sử nhân loại, trình độ sản xuất và sự hiểu biết các hiện tượng tự nhiên của con người còn rất thấp.

Sông dài, núi cao, mưa to, gió lớn đối với người xưa là những điều họ không hiểu nổi. Thiên nhiên có lúc hiền hoà nhưng có lúc lại rát dữ tợn buộc họ phải tìm hiểu và giải thích nó. Trí tưởng tượng đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành thần thoại.

Như vậy, hiện thực trong truyện thần thoại là hiện thực của các hiện tượng và hoạt động của tự nhiên. Tưởng tượng trong thần thoại chính là niềm tin thơ ngây của người nguyên thuỷ về đặc điểm của loài vật và sự hoạt động của chúng. Hiện thực trong thần thoại cũng là hiện thực kì ảo. Hoạt động và đặc điểm của sự vật và hiện tượng tự nhiên được nhìn dưới màu sắc hoang đường, kì vĩ. Vai trò và hoạt động của các vị thần tự nhiên là hệ quả của sự tưởng tượng rằng thế giới này mọi vật đều có hồn và đáng sợ. Nguyên liệu hay nói cụ thể hơn là hiện thực tự nhiên thời nguyên thuỷ đã chắp cánh cho sự tưởng tượng. Thiên nhiên thời thần thoại kì vĩ và hoang sơ đến ghê sợ khiến con người với trình độ khoa học thấp kém không thể lý giải nổi. Họ chỉ biết tôn sùng thành thần thánh. Nhưng thần hoạt động như thế nào thì không ai biết nên người nguyên thuỷ đành lấy bản thân mình ra, tô vẽ thêm một màu sắc hoang đường, kết quả thành một vị thần mà hoạt động của thần vừa mang đặc điểm hoạt động của một hiện tượng tự nhiên vừa mang hoạt động của con người. 

2.3.2.2. Về chức năng

Trong văn học, nếu lấy cấu trúc nhân vật làm tiêu chí thì ta có các kiểu nhân vật sau: Nhân vật chức năng, nhân vật loại hình và nhân vật bản thể.

Nhân vật chức năng là loại nhân vật không có đời sống nội tâm đặc điểm cố định từ đầu đến cuối tác phẩm. Nó tồn tại trong tác phẩm chỉ nhằm một số chức năng nhất định nào đó mà thôi. Nhân vật loại hình là kiểu nhân vật tập trung những phẩm chất, đặc điểm của một loại người tiêu biểu nhằm khái quát chung về tính cách điển hình. Nhân vật bản thể là kiểu nhân vật phức tạp có cá tính nổi bật, thường có những mâu thuẫn nội tại có những chuyển biến phức tạp. Nó vừa đáng ghét, vừa đáng thương, vừa lương thiện lại cũng vừa độc ác,… Nhân vật trong thần thoại là thần, hầu hết có nguồn gốc từ thiên nhiên. Xét trong tiêu chí trên thì nhân vật trong thần thoại chỉ được xây dựng như những nhân vật chức năng. Mỗi vị thần thể hiện rất rõ chức năng được phân công của mình là nhân vật làm lợi hay gây hại. Họ chỉ có thể hành động theo nhiệm vụ nào đó được định sẵn. Họ là “lời giải thích” cho chính nguồn gốc mà họ sinh ra. Chẳng hạn, Thần trụ Trời giải thích về sự hình thành của trời đất. Thần Mặt Trăng giải thích tại sao mặt trăng lại mát dịu hơn mặt trời. Thần Mưa, Thần Gió giải thích tại sao lại có hiện tượng mưa, gió. Thần Sông giải thích cho sự hình thành của sông…Các thần chỉ xuất hiện khi cần thiết để thực hiện một vai trò nào đó về quyền năng của mình điều khiển được sau đó lại biến đi. Thần không phải nhân vật tâm lí hay tính cách, vì vậy thần chỉ biểu hiện sự vô tư hay hữu ý của mình qua hành động mà không bao giờ bộc lộ những suy nghĩ nội tâm. Đặc điểm đó của thần phản ánh trình độ và đặc trưng tư duy của con người thời cổ.

Các nhân vật trong thần thoại như: thần Mưa, thần Sấm, thần Gió, thần Biển, thần Nước, thần Lửa,… mỗi thần chỉ thực hiện một chức năng, một hành động. Đối với các nhân vật sáng tạo văn hoá cũng vậy, mỗi thần đem tới một chiến công, một sự đóng góp cho xã hội loài người như sáng tạo trời đất hay công việc kiến tạo vũ trụ. 

Với chức năng sáng tạo trời đất, nhiều truyện thần thoại kể rằng: trước đây trời đất là một mớ hỗn độn, bùng nhùng. Sau đó nhờ Thần Trụ Trời (Việt), Ải Lậc Cậc (Thái), ông Chống Trời (Mường), ông Chày bà Chày (Mông), Ải Đăng Đen (Tày),  Aê Adiê (ÊĐê), Tầm Thênh (Chăm),…mà trời đất tách riêng ra, trời cao dần lên nhờ các thần đứng dậy đội bầu trời hoặc nhờ những cây vũ trụ như cây si, cây đa, cây sào, cột trụ chống trời cao lên. Vũ trụ được kiến tạo nhờ những người khổng lồ đó. Trong thần thoại người Việt, thần Trụ Trời dùng đôi tay khổng lồ đào đất đắp cột chống trời, khi trời đất xa nhau thần mới phá cột đi, đất đá văng ra thành đồi núi, nơi đào đất thành biển.

Ngoài ra, việc kiến tạo vũ trụ, sắp đặt tự nhiên cũng được phân công cho một đôi thần nam nữ. Đó là bà Nữ Oa – ông Tứ Tượng, ông Lộc Cộc – bà Tồ Cô,…Ở đây, các ông bà khổng lồ cùng chung sức xây dựng, sắp xếp, hoàn thiện vũ trụ theo nhiều hình thức khác nhau. Chẳng hạn, hai ông bà Lộc Cộc – Tồ Cô đều to lớn nên đều có sức khỏe dị thường. Ông bà thường đua nhau làm các việc lớn lao như đào sông, xây núi, lấp biển,…Còn ông bà Nữ Oa – Tứ Tượng, hai bên đua nhau đắp núi. Nói về hai thần đực cái, trong dân gian có câu:

…bà Nữ Oa bằng ba mẫu ruộng
…ông Tứ Tượng mười bốn con sào

Có thể thấy, cách giải thích về vũ trụ như vậy ta đều biết rõ là chưa đúng với nguyên nhân thực tế. Song nó đã chứng tỏ người xưa rất quan tâm đến mọi hiện tượng của thế giới tự nhiên quanh mình, bởi vậy họ đã cố gắng quan sát tỉ mỉ và cố gắng giải thích sự tồn tại của nó. Bên cạnh đó, ta cũng thấy được hình ảnh hay dấu ấn của những con người lạc quan và dồi dào sức sống từ ngàn xưa. Không giống như các thần trong truyện cổ tích chỉ cần một câu thần chú hay hay trong chớp mắt là có được điều mình muốn thì trong thần thoại, muốn chống trời, các thần phải hì hục đào đất đắp đá, dựng cột; muốn cho trời rộng, đất dài, các thần phải ra sức kéo co; muốn đội bầu trời phải dùng đôi vai vĩ đại của mình. 

Cho dù tư duy cổ xưa có thơ mộng đến đâu chăng nữa thì vẫn không thể vượt qua được nhận thức thực tế về khả năng cải tạo tự nhiên bằng chính sức lao động của con người.

Cũng với các nhân vật cặp đôi trên, họ không chỉ có khả năng kiến tạo vũ trụ, sắp đặt tự nhiên mà họ còn tạo nên nòi giống, loài người, dân tộc. Bà Tồ Cô đẻ ra một cái bọc. Từ cái bọc nở ra mười hai người con gái xinh đẹp. Các cô gái thay mẹ chia nhau đi khắp bốn phươn dạy dân các nghề nghiệp. Trong thần thoại người Việt, thần có chức năng sáng tạo ra loài người chính là Ngọc Hoàng. Đây là người sinh ra muôn loài, thấu hiểu mọi lẽ, chi phối mọi việc, vừa là người cai quản, điều hành vũ trụ, vừa là “vua” của muôn loài. Người thời cổ cho rằng Ngọc Hoàng đã dùng những chất tinh tuý nhất để nặn ra loài người và người được giao nhiệm vụ cao cả ấy là mười hai Bà Mụ. Câu chuyện về mười hai Bà Mụ đã lí giải sự xuất hiện của loài người trên trái đất này và vì sao con người lại thông minh hơn các loài vật khác. Nguồn gốc của các loài vật cũng vậy, đều do một tay Ngọc Hoàng tu bổ, loài vật ngay từ khi sinh ra không phải đã hoàn chỉnh ngay mà phải được tu bổ cho ngày càng hoàn thiện.

Vì con người được sáng tạo ra từ những chất tinh tuý cho nên con người khôn hơn những loài động vật khác. Phải chăng, truyện thần Đất bị đánh đã phản ánh thực tế: Người xưa cũng đã mơ hồ thấy được sự bất công trong xã hội: “Xưa có một anh chàng nọ suốt năm làm ăn đầu tắt mặt tối mà cực khổ vẫn hoàn cực khổ. Anh ta rất bất bình khi thấy xung quanh mình mọi người đều giầu có sung sướng. Anh ta bèn quyết chí đi tìm ông Trời để hỏi cho ra nhẽ…”

Với chức năng điều tiết, chi phối tự nhiên, thần Gió, thần Mưa, thần Núi, thần Biển, thần Mặt Trời, thần Mặt Trăng,…luôn có mặt trong mọi sinh hoạt của đời sống cộng đồng. Thần Gió mang gió đi khắp nơi mang lại sự trong lành cho thế gian. Đó là nhưng điều tốt lành mà gió mang lại. Tuy nhiên, thần Gió tuân lệnh Trời làm ra gió và cả bão ở thế gian. Vì hay hợp sức với thần Mưa hoặc thần Sét nên bên cạnh điểm tốt lành thì thần Gió cũng như thần Sét khi biểu lộ sự giận dữ của Trời đối với loài người bằng cách gây nên bão táp để trừng phạt.

Truyện “Cóc kiện Trời” ra đời có chức năng chính là nhằm giải thích và khắc phục nạn hạn hán. Thần Núi và thần Nước cai quản hai địa vực khác nhau nhưng lại hay xung đột như trận đánh nhau giữa thần núi Tản Viên và Thuỷ Tinh. Thế giới của thần Núi là các dãy núi còn chức năng của thần Nước là cai quản sông, biển, ao, hồ và làm vua mọi loài thuỷ tộc. Trong khi đó thần Mưa thường theo lệnh vua Ngọc Hoàng đi phân phát nước ở khắp nơi. Nhờ đó mà thế gian này có nước để sinh sống.

Thần Biển của Việt Nam thở ra hít vào làm nước triều lên xuống, thần cựa mình thành giông. Lúc biển động, có những ngọn sóng cao như núi mà người miền biển gọi là sóng thần là những lúc thần biển thở quá mạnh hay hít quá nhiều. Thần thoại được sáng tác không phải dưới ánh sáng của ý thức sáng tạo nghệ thuật mà xuất phát từ niềm tin của con người vào sự tồn tại của đấng siêu nhiên thần thánh. Dường như trí tưởng tượng phóng khoáng, hồn nhiên và thơ mộng của con người thời nguyên thủy đã chắp cánh cho hình tượng thần, làm cho họ trở nên đẹp đẽ, trở thành mẫu mực của nghệ thuật không gì sánh nổi.

2.3.2.3. Về hành trạng

Cùng với thân hình đồ sộ, hành trạng của các thần cũng kì vĩ, to lớn, tương xứng với sự đồ sộ của thân hình. Hành trạng ở đây chính là việc làm của thần.

Nhân vật thần thoại có hình dạng và hành động phi thường. Hình dạng của nhân vật thần mang tầm cỡ vũ trụ. Lớp nhân vật thần thoại có nguồn gốc thiên nhiên vũ trụ không có hình hài rõ ràng, vô hạn định. Hành động của thần thì biến hóa khôn lường, đi mây về gió, thoắt biến thoắt hiện. Hành động của thần là nguyên do của các hiện tượng thiên nhiên. Hành động đó vừa có yếu tố thực, vừa có yếu tố hoang đường. Yếu tố thực là lấy các hoạt động của con người, của thiên nhiên để miêu tả hành động của thần. Yếu tố hoang đường là màu sắc thần thánh, là cách lý giải ngây thơ về các hiện tượng thiên nhiên và xã hội.

Là đứa con tinh thần của người xưa, hình tượng các vị thần được xây dựng khá đơn giản, không có tính cách rõ ràng. Tuy nhiên, điều đó là hợp quy luật bởi vì thần thoại được sinh ra, “bắt nguồn từ những tâm hồn hồn nhiên, ngây thơ, chất phát”. Và dù các thần có làm gì thì nó cũng được xuất phát từ chính cuộc sống lao động của con người nguyên thủy lúc bấy giờ. 

Có thể nói, khi con người mới thoát khỏi thế giới động vật, lúc đó chưa có thần thoại. Chỉ khi cùng với nhu cầu tồn tại và phát triển của chính cộng đồng người, lao động của họ phát triển đánh dấu bằng những công cụ tuy còn thô sơ nhưng đã hiện đại hơn nhờ sự hỗ trợ của sáng tạo và kinh nghiệm. Tư duy và ngôn ngữ của con người nhờ đó cũng phát triển hơn. Lao động khiến cho tư duy phát triển và ngược lại. Thông qua các câu chuyện thần thoại, ta thấy người xưa đã nhận thức được rằng: dù Ngọc Hoàng có ý tốt đến mấy đi chăng nữa nhưng nếu không có bàn tay lao động của họ thì ý tốt ấy cũng không thể thành hiện thực được. Chính nhờ có lao động, có bền bỉ gánh đất đắp núi cao thì thần Tứ Tượng mới khiến cho bà Nữ Oa cảm động và đồng ý lấy ông dù

Tứ Tượng vẫn chưa xây đắp được núi cao hơn bà. Và vì Nữ Oa mà thần Tứ Tượng đã miệt mài gánh đất đắp núi. Để làm được công việc đó, thì tác giả dân gian đã miêu tả hành trạng của ông như sau: Tứ Tượng có một đôi thúng vĩ đại, có thể chứa được hàng nghìn đồi đất. Thần làm việc cật lực. Một chuyến thần đang gánh, thúng đứt dây làm đất đổ xuống thành chín cái đồi lớn. Hình tượng Tứ Tượng xây núi gây cho ta cái cảm giác choáng ngợp trước sự kỳ vĩ của cơ thể họ.

Những hiện tượng như núi, sông, biển, đồi…đều là những chỗ đất đá được đào sâu hay đắp cao mà thành chứ không phải được sinh ra từ cái “hư vô” nào, hoặc dựa theo một mục đích và ý chí siêu nhiên nào. Chúng đều có thuộc tính bản chất là vật chất, đều là những hình thức cụ thể của vật chất muôn màu, muôn vẻ. Và như vậy là các sự vật, hiện tượng trong vũ trụ đều là sản vật của sự cải biến vật chất bằng lao động.

Mặc dù trời đất thuở ban đầu còn hỗn độn, nhập nhằng, chưa phân chia rõ rệt. Những người xưa quan niệm rằng: vũ trụ có ba tầng. Trên trời có thiên đình, dưới đất có âm phủ, giữa có con người – trần gian. Trước đây, những tầng vũ trụ đó thông tỏ được với nhau, bởi các vị thần điều khiển cả ba thế giới đều ở thiên đình. Chính vì có ba tầng vũ trụ nên trong thần thoại, các thần và cả người trần có thể đi đến thế giới khác một cách dễ dàng hơn. Và thế là ông Trời, thần Đất, thần Nước, Diêm Vương ra đời…Ông Trời sinh ra muôn loài. Trời có con mắt, thấy tất cả, biết hết mọi sự xảy ra ở thế gian. Người ta vẫn tin rằng Trời ăn ở rất công bằng. Nếu như trời là bậc tối cao ở tầng cao nhất thì thần Đất là bậc tối cao ở tầng thấp. Thần sinh hoạt ở mặt đất nhưng lại biết hết mọi công việc ở nơi trần thế. Trong bảy ngày cuối năm thần Đất vắng mặt ở hạ giới lên chầu Ngọc Hoàng không ai dám động vào đất của thần. Đến ba mươi thần mới xuống trần. Thần có oai quyền rất lớn.Thần sẽ chừng phạt kẻ nào phạm tội. 

Thần Thủy Tinh, Hà Bá có thể dễ dàng lên mặt đất. Tuy nhiên thần Nước không bao giờ lên được cõi cai quản của thần Núi hoặc cõi trời. Cõi đất và cõi nước tuy gần nhau nhưng có giới hạn, ngăn cách còn cõi đất và cõi trời hoặc cõi trời với cõi nước thường dễ dàng xâm nhập lẫn nhau. Thần Mưa đem vòi rồng xuống hút nước ở cõi nước. Thần Thiên Lôi xuống cõi đất thường xuyên, thần Thổ Công lên trời vào dịp cuối năm. Trong khi thần nước chỉ lên được mặt đất chứ không chiếm lĩnh được không gian của cõi đất, (Thần Nước không bao giờ lên chiếm được nơi trú ngụ của thần Núi).

Thần Sét ra đời gắn với việc xét xử kẻ ác ở nơi trần thế. Mỗi lần xử án, thần thường đánh trống đeo bên mình làm thành tiếng sấm (cho nên người ta cũng gọi thần Sét là ông Sấm) rồi thần từ trên trời nhảy xuống tận nơi, trỏ ngọn cờ vào đầu tội nhân, bổ ngay búa vào đầu. Có khi thần bỏ ngay lưỡi búa đó lại vì bận việc phải đi nhiều nơi. Thần thường ngủ về mùa đông, vào khoảng tháng hai, tháng ba mới thức dậy đi làm việc. 

Trong cuộc đấu tranh tự nhiên, con người ngày càng khẳng định vị trí của mình trong vũ trụ, họ có nhu cầu lí giải sự tồn tại của chính bản thân mình. Trong thần thoại, hành trạng của Ngọc Hoàng với công việc của mình là lấy chất tinh túy nhất từ đất nặn ra con người. Sau đó, người giao cho mười hai bà mụ tiếp tục hoàn chỉnh công việc. Các mụ dạy con người cười, khóc, nói chuyện,…để lí giải những cung bậc cảm xúc khác nhau trong đời sống của con người.

Với sự quan sát tỉ mỉ để lí giải các hiện tượng tự nhiên, người xưa đã sáng tạo ra những câu chuyện độc đáo với trí tưởng tượng bay bổng của mình. Thần Mặt Trăng thì tính tình nóng nảy lại hay sà xuống dòm ngó hạ giới. Mặt Trời đi kiệu có người khiêng, khi nào người khiêng là thanh niên thì hành trình thần chậm hơn vì thanh niên có tính hay chơi đùa, la cà dọc đường khi nào khiêng kiệu là người đứng tuổi thì hành trình của thần nhanh hơn vì họ không làm phí thì giờ dọc đường.

Có thể thấy, sức khỏe và tài năng phi thường của họ chính là sự tăng cấp gấp nhiều lần khả năng của bản thân. Người nguyên thủy dù có lãng mạn đến đâu cũng chưa thể hình dung được cái gì khác hơn là chính bản thân mình. Vì vậy, thần chính là sự thần thánh hóa, sự tăng cấp tài năng, sức mạnh của chính con người, trong đó mang mơ ước thay đổi tự nhiên, cải biến vũ trụ. Sự khổng lồ về kích thước, vĩ đại trong hành trạng của những vị thần – anh hùng cộng đồng, tạo ra vẻ đẹp kì vĩ và đầy lãng mạn, độc đáo của thần thoại các dân tộc nói chung và thần thoại Việt nói riêng. Hành trạng của các thần rất tương xứng với thân hình kỳ vĩ, to lớn và chức năng mà dân gian đã trao cho các thần. Hay nói cách khác đó cũng chính là quyền lực mà mỗi vị thần có để làm những nhiệm vụ riêng của mình.

2.4. Ngôn ngữ nghệ thuật

Nhà nghiên cứu Nguyễn Đổng Chi đã có một nhận xét hết sức thấu đáo về sự ra đời của thần thoại: “Thần thoại chỉ có thể xuất hiện vào lúc mà trình độ nhận thức của con người đã sáng sủa, óc trừu tượng và suy đoán đã nảy nở, sinh hoạt tình cảm đã khá dồi dào. Nhờ đó họ đã biết sắp xếp cho có hệ thống những ý nghĩ và tình cảm của mình để xây dựng thành những câu chuyện. Thần thoại cũng chỉ có thể xuất hiện vào lúc mà tiếng nói của con người đã phát triển. Ngữ vựng tuy còn nghèo nàn, ngữ pháp còn đơn giản nhưng đã đủ cho xã hội dùng vào phô diễn sự việc”.

Quá trình sinh tồn, lao động đã giúp tư duy và ngôn ngữ của con người ngày càng phong phú, việc lí giải các hiện tượng tự nhiên, xã hội cũng như cội nguồn của mình đã giúp cho con người tiếp tục khám phá những bí ẩn của cuộc sống. Công cụ lao động ra đời luôn là một bước tiến của loài người. Khi phát minh ra công cụ lao động, con người có thể thần thánh hóa phát minh của mình. Hoặc đời sau không thể lí giải được nguồn gốc công cụ lao động bèn thần hóa nó. Đó chính là cơ sở để hình thành nên thế giới thần vừa hết sức gần gũi mà lại hết sức xa lạ với chúng ta ngày nay. Khi tư duy con người phát triển, con người nhận thức lại các vấn đề cũ. Những câu chuyện thần thoại cũ được tu sửa, phát triển cho logic, hoàn thiện hơn.Vì vậy, nhờ có ngôn ngữ, con người dần ý thức được việc truyền lại những tri thức, nhận thức, kinh nghiệm cho đời sau và đó là cơ sở để thần thoại tiếp tục ra đời, tiếp tục được làm mới, thêm sức hấp dẫn, là món ăn tinh thần của con người.

Ở thời kì xa xưa, thần thoại chính là lịch sử của con người. Thần thoại là thể loại ra đời sớm nhất trong hệ thống các thể loại văn học. Theo dòng chảy của nhân loại, thần thoại dần hoàn thiện và nhường chỗ cho các thể loại khác (sử thi, truyền thuyết, cổ tích…). Những thể loại ra đời sau luôn kế thừa ở thần thoại những yếu tố nhất định (các mẫu nhân vật, ngôn từ, nghệ thuật phóng đại…), nhiều thần thoại được truyền thuyết hóa khiến chúng ta ngày nay khó có thể phân biệt tác phẩm đó là thần thoại hay truyền thuyết.

Như vậy, thể loại thần thoại luôn tồn tại trong hệ thống văn học, văn hóa của nhân loại cũng như của từng dân tộc. Nó đã góp phần giúp con người hiện đại nhìn nhận được lịch sử của mình, không những thế các yếu tố thần và tư duy thần thoại vẫn còn tồn tại trong ý thức xã hội và trong nghệ thuật, những yếu tố đó là cội rễ để nhân loại sáng tạo ra những giá trị văn học, văn hóa nghệ thuật mới vẫn còn được sử dụng cho đến ngày nay như: ẩn dụ, so sánh, phóng đại; không gian, thời gian nghệ thuật, kết cấu, cốt truyện,…mà ở thời kì đó, người ta cho rằng thần thoại là thể loại “vừa là nghệ thuật, vừa không phải là nghệ thuật”. Tuy nhiên, cũng cần khẳng định rằng đây là những biện pháp nghệ thuật không tự giác. Chính điều này đã tồn tại trong tư duy của người nguyên thủy. Họ suy nghĩ, tưởng tượng theo kiểu phóng đại, so sánh và ẩn dụ, thậm chí không hề biết rằng đó là biện pháp nghệ thuật. Cái gọi là biện pháp nghệ thuật chỉ là sự gán ghép của chúng ta ngày nay khi nhận thức thần thoại vừa như là văn hóa, vừa như là nghệ thuật.

2.4.1. So sánh

So sánh là biện pháp tu từ được sử dụng hầu hết trong tác phẩm văn học.

Nhưng ở đây, chúng tôi nghiên cứu biện pháp so sánh ở đây không phải là nghiên cứu thuần túy về ngôn ngữ. Với phương diện xét về các từ và cụm từ so sánh, có thể cho rằng, đây chưa hẳn là ngôn ngữ thần thoại. Cũng có thể đó là ngôn ngữ đời sau.

Thần thoại là một thể loại truyền miệng, ngôn ngữ nguyên thủy chắc chắn đã có nhiều biến đổi, không còn giữ nguyên được hình thức diễn đạt ban đầu. Do đó, ở đây, việc thống kê các từ và cụm từ so sánh là không cần thiết, thậm chí không đúng với phương pháp nghiên cứu thần thoại. Chúng tôi đã suy nghĩ theo một hướng khác: So sánh là đặc điểm của tư duy nguyên thủy. Cũng như thế, có thể nói về phóng đại và ẩn dụ. Đặc điểm này được bảo lưu ở nhiều dân tộc trong quá trình phát triển sau này. Ở thời hiện đại, lối tư duy này chỉ dành cho sáng tác nghệ thuật, đặc biệt là nghệ thuật ngôn từ. 

Ấn tượng độc đáo mà các hình tượng thần gợi ra cho người đọc ngày nay chính là vẻ đẹp mộc mạc, kì lạ từ các vị thần. Thần thoại chưa có khả năng khắc họa vẻ đẹp nội tâm nhân vật, nghĩa là nhân vật mới chỉ có vài nét phác họa về diện mạo, hình thể, hành động. Người xưa tìm ra những hình ảnh độc đáo, những liên tưởng kì lạ để phác họa chân dung các vị thần. Hình tượng thần được xây dựng từ những yếu tố của thiên nhiên và cả những yếu tố của con người.

Trong thần thoại người Việt, khi xây dựng hình tượng Thần Trụ Trời, tác giả dân gian đã có những hình ảnh so sánh như sau: chân thần bước một bước cứ như bây giờ từ tỉnh này qua tỉnh nọ hay đỉnh núi này sang đỉnh núi kia hay Đất phẳng như cái mâm vuông, trời ở trên như hai cái bát úp, chỗ giáp giới giữa trời và đất gọi là chân trời. Mặc dù việc sử dụng nghệ thuật so sánh không phải là tự giác nhưng chúng ta phần nào cũng thấy được từ việc quan sát thực tế cộng với những liên tưởng độc đáo đã giúp người xưa có được sự hình dung đậm chất duy vật về bầu trời, vũ trụ.

Đối với thần Biển, tác giả dân gian cũng có sự so sánh phong phú, hồn nhiên: Lúc biển động, có những ngọn sóng cao như núi mà người miền biển gọi là sóng thần….Bên cạnh đó, Thần Văn được miêu tả như sau: Người ta thường hình dung mặt mũi nhăn nhó, không râu, tay trái cầm cái nghiên, tay phải cầm bút lông, người nghiêng ra trước, chân trái nhắc lên phía sau như sắp chạy, thân hình lại để trần….

Thông qua việc tìm hiểu trên, ta thấy mặc dù biện pháp so sánh được sử dụng không nhiều nhưng bước đầu đã cho ta thấy ý thức sáng tạo, sức tưởng tượng tương đối phong phú của người xưa về cuộc sống, về thiên nhiên. Đặc biệt biện pháp đó đã giúp người xưa vẽ nên những hình ảnh tuy còn nghuệch ngoạc, thô mộc về các vị thần nhưng chính sự thô mộc ấy đã diễn tả được cuộc sống buổi đầu của nhân loại nói chung và thần thoại người Việt nói riêng.

2.4.2. Phóng đại

Theo quan niệm của người xưa, các vị thần quyền lực trong thần thoại là những nhân vật vừa có sức mạnh phi thường, vừa có khả năng sáng tạo ra những giá trị vật chất và tinh thần cho tộc người. Họ không chỉ là những người có sức mạnh khai sơn phá thạch, đào sông lấp biển, mà cùng với quá trình lao động không ngừng, họ đã phát minh ra những nghề nghiệp quan trọng, tạo nền tảng kinh tế vững chắc cho cả cộng đồng. Như vậy, có thể nói, những vị thần này không chỉ tạo nên không gian sinh tồn cho tộc người, mà họ còn góp phần đem lại sự ổn định về mặt kinh tế, đảm bảo cho sự phát triển bền vững của các cộng đồng người. Họ chính là kết tinh sức mạnh lao động, sáng tạo của tộc người. Do vậy, trong tâm thức người xưa, biểu tượng các vị thần buổi khai thiên lập địa có vai trò quan trọng. Thế giới thần trong thần thoại vì vậy được phóng đại về mặt kích thước và hành trạng để trở nên độc đáo, phi thường. Hầu hết thần trong thần thoại đều được tô vẽ bằng trí tưởng tượng cùng với hiện thực trước mắt, do đó thế giới thần không phải là sản phẩm hoang tưởng mà có căn nguyên từ thực tiễn. Nghệ thuật phóng đại giúp người xưa có thể tái hiện lại thế giới vũ trụ bao la, bí hiểm cùng với việc khái quát lịch sử khai phá thiên nhiên, kiến tạo xã hội của nhân loại theo thời gian.

Về cơ bản hình tượng thần thường được phóng đại từ hai phương diện: kích thước ngoại hình và hành động.

Trong cách phóng đại của người xưa, đó là xu hướng lấy cái rộng lớn kì vĩ của thiên nhiên, vũ trụ làm chuẩn, do đó hình tượng các thần gần với thiên nhiên vũ trụ hơn là với con người. Hình tượng thần chưa được miêu tả mà mới chỉ được hình dung qua vài nét sơ lược. Điều này giúp chúng ta có cơ sở khẳng định rằng thần thoại nói chung và hình tượng thần nói riêng là sản phẩm tự phát, nó chính là sợi dây để con người gắn kết chặt chẽ với tự nhiên và đồng thời là một phương tiện hữu hiệu để người xưa tri giác, nhận thức về tự nhiên.

Cuộc sống của con người thời cổ không chỉ nương nhờ thiên nhiên, muốn chinh phục thiên nhiên mà trong đó còn có sự sợ sệt thiên nhiên. Vì vậy, hình tượng các thần với những hành động độc đáo, phi thường được hình dung, tưởng tượng một các hết sức thơ ngây, tự nhiên. Chuỗi hành động của mỗi thần được sáng tạo tùy thuộc vào trí tưởng tượng, tư duy của mỗi tộc người. Và chúng ta có thể khẳng định rằng:  phóng đại là biện pháp nghệ thuật quan trọng nhất và thành công nhất của thần thoại. Nhờ phóng đại mà người xưa đã phần nào hình dung về sự kì vĩ của vũ trụ, sức sáng tạo kì diệu của con người. Cũng nhờ biện pháp này mà ngày nay chúng ta tìm thấy vẻ đẹp nguyên sơ của nghệ thuật, vẻ đẹp thuần khiết trong tư duy của con người với trí tưởng tượng phong phú, chất phác của người xưa và đó là vẻ đẹp mà ngày nay nghệ thuật không thể lặp lại mà chỉ có thể mô phỏng và bắt chước một cách sáng tạo.

Tiểu kết

Thần thoại là sản phẩm của chế độ cộng sản nguyên thủy. Thần thoại mang nhiều tính chất hoang đường nhưng con người cũng gửi gắm vào đó lòng khao khát tìm hiểu vũ trụ, vươn lên trong lao động và đấu tranh, chắp cánh cho tâm hồn con người bay bổng với những ước mơ cao đẹp. Đọc những câu chuyện thần thoại ta bắt gặp các vị thần quyền lực với vẻ đẹp kì vĩ lớn lao. Có thể nói, thần thoại hình thành từ ba nguồn chủ yếu. Một là mối mâu thuẫn lớn giữ khát vọng giải thích các hiện tượng tự nhiên với hiểu biết thấp kém về giới tự nhiên. Hai là từ khát vọng vươn lên chiếm lĩnh, ngự trị thế giới tự nhiên, chinh phục tự nhiên của con người. Và cuối cùng là từ khát vọng giải thích các mối quan hệ mới nảy sinh và ngày càng đa dạng giữa con người với chính mình, với người khác và với cộng đồng khác buổi sơ khai.

Biểu tượng thần quyền lực trong thần thoại là một sản phẩm độc đáo của tư duy nguyên thủy. Nó được sáng tạo ra bởi những biện pháp nghệ thuật vô ý thức nhưng lại đạt hiệu quả thẩm mĩ cao. Các thần hiện lên với những đặc điểm về ngoại hình, chức năng và hành trạng. Thông qua các câu chuyện thần thoại, ta có thể hiểu được quan niện thực tế và quan niệm thẩm mĩ của họ. Sự độc đáo trong việc khắc họa hình tượng nhân vật thần đã đánh dấu một bước quan trọng trong sự phát triển tư duy của người cổ đại.

Thần thoại được sáng tác dưới ánh sáng của trí tưởng tượng và hư cấu bằng lòng tin ngây thơ của con người thời bấy giờ. Những sáng tạo nghệ thuật của họ chưa phải là tự giác. Một trong những biện pháp nghệ thuật quan trọng tạo nên sự hấp dẫn cho các vị thần quyền lực trong thần thoại tiêu biểu như: phóng đại, so sánh. Nhờ phóng đại mà ngày nay chúng ta có thể tưởng tượng lại đời sống con người buổi đầu, nhất là hình dung về vẻ hoang sơ, kì bí của vũ trụ những ngày xa xăm, những bức vẽ phóng khoáng về thiên nhiên, vạn vật. Nhờ so sánh đã giúp con người phát huy trí tưởng tượng của mình, và nhờ trí tưởng tượng ấy, con người không ngừng ước mơ, khám phá, sáng tạo. Và đó cũng là lí do vì sao người ta cho rằng thần thoại chính là “vẻ đẹp một đi không trở lại” mà ta chỉ có thể tìm lại trong thể loại này.

KẾT LUẬN

Thần thoại là thể loại ra đời, phát triển và suy thoái trong hình thái xã hội công xã nguyên thủy. Nó là sản phẩm tinh thần của người nguyên thủy, nội dung của nó mang tính chất hoang đường ảo tưởng, nhưng trong đó cũng chứa đựng nhiều yếu tố có giá trị quan trọng về nhiều mặt.

Thần thoại là sự kết tinh và nghệ thuật hóa những quan niệm cổ xưa về thế giới và tôn sùng tự nhiên. Từ niềm tin vào thế giới tự nhiên thần thánh mà người xưa sáng tạo ra thần thoại và thực hành tín ngưỡng nguyên thủy. Từ khát vọng vén bức màn vũ trụ mà những nét phác họa đầu tiên về văn hóa được hình thành và ngày càng được bồi đắp đậm đặc hơn. Ở phương diện khác, văn hóa là tập hợp hệ thống các biểu tượng do con người tạo ra. Và như vậy, biểu tượng chính là đối tượng để con người thể hiện bản sắc văn hóa. Biểu tượng là một sản phẩm văn hóa được hình thành một cách tự nhiên trong “hành trình văn hóa” của loài người. Đặc biệt, với biểu tượng quyền lực trong thần thoại, ta thấy được sức mạnh siêu nhiên củacác vị thần tự nhiên tiêu biểu như thần Lửa, thần Nước, thần khổng lồ và thần Đất. Mỗi vị thần có một hình dáng, một nguồn gốc, một cá tính và một lĩnh vực chuyên môn mà họ quản lý.

Với thể loại dân gian được coi là hình thức sáng tác của con người thời đại xa xưa, thần thoại thể hiện ý thức muốn tìm hiểu vũ trụ, lý giải vũ trụ và chinh phục thế giới tự nhiên của con người. Các biểu tượng quyền lực trong thần thoại người Việt là một trong những nơi kết tinh chắt lọc những tinh hoa tinh túy của con người thời bấy giờ. Việc giải mã các biểu tượng trên vừa giúp chúng ta thấy được toàn bộ bức tranh đời sống, xã hội, tín ngưỡng, phong tục của người Việt, vừa giúp ta thấy được những giá trị nghệ thuật độc đáo của thể loại “vừa là nghệ thuật vừa không phải là nghệ thuật”. Những câu chuyện thần thoại tuy ngắn và có kết cấu đơn giản nhưng chứa đựng và kết tinh trong nó hàng ngàn, hàng vạn năm kinh nghiệm mà chúng ta không dễ gì khám phá hết được.

Như vậy, dựa vào việc nghiên cứu các biểu tượng văn hóa,ta thấy được mối quan hệ giữa biểu tượng văn hóa – văn học ở tầm khái quát, cùng với đó đi sâu vào thể loại thần thoại. Qua đó, ta phát hiện ra được các giá trị văn hóa và nghệ thuật có trong thần thoại người Việt. Không chỉ vậy, đây là một trong những thể loại đầu tiên của con người buổi đầu. Nó chính là cơ sở để các thể loại sau này phát triển các giá trị văn hóa sơ khai trở thành các giá trị đậm đà bản sắc dân tộc sau này.Nét đẹp văn hóa ấy mãi vẫn như mạch nước nguồn nhuần thấm len lỏi chảy trong tâm hồn bao thế hệ lớp người Việt Nam. Và khởi nguồn của nó chính là từ thần thoại.

Vương Thị Hồng, 2018, Biểu tượng về quyền lực trong thần thoại người Việt, Luận văn thạc sĩ ngôn ngữ, văn học và văn hóa học Việt Nam, Đại học sư phạm Thái Nguyên.
https://drive.google.com/file/d/1qMMX_dYmT4QmHrOcR9wsQY7AIHdG2Frs/view?usp=sharing

Tranh minh họa: Thiện và ác cổ tích Artbook.

Bình luận về bài viết này

Trang web này sử dụng Akismet để lọc thư rác. Tìm hiểu cách xử lý bình luận của bạn.