521. 🌟 Ngôn ngữ của cư dân văn hóa Đông Sơn tại Việt Nam

1. Những nội dung thảo luận và phương pháp tiếp cận

1.1. Giới hạn những nội dung thảo luận

Trước hết là khái niệm “văn hóa Đông Sơn” hay còn gọi là “văn minh Sông Hồng”. Đây là văn hóa được giới nghiên cứu cho là thuộc thời kì “nhà nước Văn Lang – Âu Lạc” trong tiến trình phát triển của quốc gia Việt Nam, về niên đại của văn hóa trong lịch sử, trên cơ sở kết quả nghiên cứu những di vật thể hiện đặc trưng văn hóa, các nhà khảo cổ học dường như đã nhất trí xác định thời gian tương đối của văn hóa. Theo như kết luận mà Hà Văn Tấn – nhà khảo cổ học hàng đầu Việt Nam phát biểu thì “Văn hóa Đông Sơn tồn tại ở miền Bắc Việt Nam từ giữa thiên niên kỉ thứ nhất trước Công nguyên đến khoảng thế kỉ II sau Công nguyên” [Hà Văn Tấn (1997): 759-760], Gần đây, thời gian tương đối ấy của văn hóa Đông Sơn cũng đã được một nhà khảo cổ học khác là Hán Văn Khẩn nhắc lại khi ông tái khẳng định một cách cụ thể hơn rằng: “Kết quả nghiên cứu của toàn ngành khảo cổ học trong suốt một thế kỷ qua đã xác định một cách chắc chắn rằng, văn hóa Đông Sơn thuộc sơ kì thời đại đồ sắt, tồn tại kéo dài từ thế kỉ VII trước Công nguyên (TCN) đến thế kỉ I-II sau Công nguyên (SCN)” [Hán Văn Khẩn (2011): 244].

Như vậy, với những kết luận như trên của giới nghiên cứu khảo cổ học, văn hóa Đông Sơn của “nhà nước Văn Lang – Âu Lạc” trong lịch sử Việt Nam có thời gian tương đối được xác định hiện diện khoảng “từ thế kỉ VII trước Công nguyên (TCN) đến thế kỉ I-II sau Công nguyên (SCN)”.

Cũng ở  khía cạnh thời gian, văn hóa Đông Sơn đã từng được Hà Văn Tấn đề nghị có thể chia thành hai giai đoạn mà ông gọi là “Đông Sơn I” tương ứng với “nửa đầu thiên niên kỉ I trước Công Nguyên” và “Đông Sơn II’ tương ứng với “nửa đầu thiên niên kỉ I sau Công Nguyên” [Hà Văn Tấn (1970): 62]. Còn nhìn ở góc độ lịch sử thì khi thể hiện tiến trình lịch sử Việt Nam, Nguyễn Quang Ngọc đã cho rằng “Trong thời đại dựng nước, ta (tức Việt Nam – TTD)… đã tạo dựng một nền văn minh rực rỡ – nền văn minh Sông Hồng và hình thái Nhà nước sơ khai – nhà nước Văn Lang – Âu Lạc [Nguyễn Quang Ngọc (2000): 34]. Với nội hàm xác định như thế của các nhà sử học, cũng có thể thấy rằng giai đoạn đầu của văn hóa Đông Sơn là thời kì “nhà nước Văn Lang”; còn cuối thời gian hiện diện văn hóa Đông Sơn, ở Việt Nam đã hình thành “nhà nước Âu Lạc”. Khi nhà nước Âu Lạc bị phong kiến phương bắc thôn tính (năm 179 TCN) và sáp nhập vào thực thể Nam Việt ở phía bắc thì văn hóa Đông Sơn ỡ vào giai đoạn kết thúc.

Cũng trên kết quả nghiên cứu những tư liệu khảo cổ và vị trí di chỉ khảo cổ đã được khai quật, giới khảo cổ học đã cho biết rằng địa bàn hiện diện văn hóa Đông Sơn ở Việt Nam về cơ bản thuộc lưu vực sông Hồng; vì thế người ta đôi khi cũng có thể gọi văn hóa Đông Sơn là “văn minh sông Hồng”, về nội hàm của không gian địa lí của văn hóa, nhà khảo cổ học Hán Văn Khẩn khi trình bày về vị trí địa lí cảnh quan môi trường sinh tụ của cư dân văn hóa Đông Sơn đã cho biết như sau “Đa số các nhà nghiên cứu đều thừa nhận rằng, không gian phân bố của văn hóa Đông Sơn bao gồm cả miền Bắc Việt Nam… Mật độ các di tích Đông Sơn tập trung chủ yếu ở các châu thổ sông Hồng, sông Mã và sông Cả, trong đó châu thổ sông Hồng có tới 127 di tích và nhóm di tích, châu thổ sông Mã – 76” [Hán Văn Khẩn (2011): 244].

Khi cho rằng “văn hóa Đông Sơn bao gồm cả miền Bắc Việt Nam”, Hán Văn Khẩn đã giải thích chi tiết thêm về không gian văn hóa mà ông xác định. Theo ông, vị trí địa lí cảnh quan môi trường sinh tụ của cư dân văn hóa Đông Sơn bao gồm châu thổ sông Hồng (vùng đồng bằng sông Hồng), châu thổ sông Mã (vùng đồng bằng Thanh Hóa), châu thổ sông Cả (vùng đồng bằng thuộc hai tỉnh Nghệ Tĩnh) và cả vùng đồng bằng sông Gianh (tỉnh Quảng Bình). Khoảng không gian mà ông chi tiết hóa, như vậy, tương ứng với khu vực “từ phía nam đèo Ngang trở ra đồng bằng Bắc Bộ”. Có thể thấy, việc nhận diện địa lý văn hóa Đông Sơn mà Hán Văn Khẩn đưa ra là căn cứ vào vị trí địa lí hiện nay của những di tích khảo cổ thuộc loại “di chỉ cư trú, di chỉ – mộ táng và di chỉ xưởng sản xuất”. Như vậy, kết quả nghiên cứu của khoa khảo cổ học đã cho chúng ta biết những địa bàn địa lí vừa được nhắc đến là những vùng “trung tâm cư trú đông đúc” của cư dân vào thời kì văn hóa Đông Sơn ở Việt Nam.

Xin lưu ý rằng việc xác định không gian địa lí “văn hóa Đông Sơn” vừa được trình bày ở trên là kết quả nghiên cứu của các nhà khảo cổ học Việt Nam. Tuy nhiên, theo như M. Alves [Alves, M. (2016): 278] cho biết, một vài nhà nghiên cứu ngoài Việt Nam dựa vào kết quả phân tích những di chỉ khảo cổ mà họ có được đã cung cấp cho chúng ta bản đồ vùng địa lí văn hóa Đông Sơn mở rộng hơn nữa. Theo thể hiện của A. Calo, những di chỉ khảo cổ phía tây sông Mê Công trên đất Thái Lan và Lào tương ứng với lưu vực sông Mã, sông Cả và sông Gianh của Việt Nam cũng được ông cho rằng có đặc điểm của văn hóa Đông Sơn. Cho nên, học giả này đã thể hiện một bản đồ địa lí văn hóa Đông Sơn thuộc cả ở phần lãnh thổ phía tây sông Mê Công như sau:

Bản đồ: Khu vực địa lí văn hóa Đông Sơn theo A. Calo (Nguồn [Calo, A. (2008): 209]).

Như vậy, căn cứ vào kết quà nghiên cứu khảo cổ học ở cả trong Việt Nam và nước ngoài, có thể thấy vị trí địa lí cảnh quan môi trường sinh tụ của cư dân Đông Sơn được mô tả cả về phần phía tây, bên ngoài lãnh thổ Việt Nam. Điều này có nghĩa là, vào thời điểm hiện diện văn hóa Đông Sơn, có thể chúng ta phải nhìn nhận một không gian văn hóa mở rộng hơn không gian địa lí mà Hán Văn Khẩn đã mô tả. Với không gian địa lý đó, có một câu hỏi phải được đặt ra: Hiện nay hên địa bàn ấy có những họ ngôn ngữ nào hiện diện? Theo như kết quả mô tả địa bàn cư trú cũng như kết quả phân loại phổ hệ ngôn ngữ các tộc người ở Đông Nam Á mà chúng tôi nhiều lần đã trình bày [Trần Trí Dõi (2015; 2016): 71-215] thì địa bàn “văn hóa Đông Sơn” hiện nay là địa bàn sinh sống chủ yếu của những nhóm tộc người thuộc hai họ ngôn ngữ là Nam Á (Austroasiatic) và Thái – Kadai (Tai – Kadai/ Kradai); và có thể trước đây cũng có mặt của cư dân một vài họ ngôn ngữ khác cư trú nhưng điều đó vẫn còn chưa minh chứng được.

Trong số những họ ngôn ngữ được xác nhận hiện diện trên địa bàn “văn hóa Đông Sơn”, họ ngôn ngữ Nam Á gồm có cư dân nói những ngôn ngữ Môn – Khmer thuộc nhóm tiếng Việt [1] (Vietic), nhóm tiếng Katu (Katuic) và nhóm tiếng Khmú (Khmuic). Còn họ Thái – Kadai gồm bộ phận cư dân nói nhóm tiếng Thái (Taic) có thể trong đó gồm cả tiểu nhóm tiếng Tày – Nùng (Tay-Nungic). Trường hợp những họ ngôn ngữ khác còn lại như họ Nam Đảo (Austronesian), họ Mông – Dao (Mong – Mien) và họ Hán – Tạng (Sino – Tibetan) thì kết quả nghiên cứu lịch sử tộc người cho biết như sau: Hiện nay, tư liệu ngôn ngữ cũng như lịch sử chỉ ra rằng chắc chắn những người nói tiếng Nam Đảo, Mông – Dao và Hán – Tạng là bộ phận cư dân mới di cư đến về sau ở vùng địa lí cảnh quan môi trường sinh tụ của cư dân văn hóa Đông Sơn [Tran Trí Dõi (2015): 151-191].

1.2. Phương pháp tiếp cận

Khi đặt vấn đề cư dân “văn hóa Đông Sơn” nói thứ ngôn ngữ gì thì điều đó cũng có nghĩa là, về mặt lịch sử, chúng ta sẽ phải trả lời cho câu hỏi: Cư dân văn hóa Đông Sơn ở đồng bằng sông Hồng nói ngôn ngữ nào khi họ tiếp xúc với những người nói nhóm tiếng Hán (Sinitic) trong thời gian nhà Triệu của Triệu Đà thôn tính Âu Lạc vào thế kỉ thứ hai trước Công nguyên? Bởi vì, việc nhà Triệu thôn tính là thời gian được lịch sử ghi chép lại và là thời gian tương đối của văn hỏa Đông Sơn, cho nên thời gian tương đối ấy của văn hóa phải được gắn với thời gian ghi chép của lịch sử.

Chúng tôi tán thành với cách đặt vấn đề của M. Alves khi ông cho rằng để làm được điều đó, ngôn ngữ học phải có những bằng chứng thể hiện những kịch bản về ngôn ngữ và phải nhận diện được trong đó kịch bản nào được tư liệu (hay dữ liệu) ngôn ngữ hễ trợ nhiều nhất [Alves, M. (2019): 4]. Muốn trả lời được cho câu hỏi vừa nêu ra, rõ ràng, người ta không thể tiếp cận vấn đề đơn thuần từ ngôn ngữ học. Lí do là, vấn đề ngôn ngữ của cư dân văn hóa Đông Sơn chỉ có thể chứng minh được, ngoài cách thức của ngôn ngữ học so sánh – lịch sử, còn phải là tư liệu của khảo cổ học, của dân tộc học, v.v… thông qua góc nhìn của khoa sử học. Hai năm trước đây, một vài nội dung đòi hỏi ngôn ngữ học phải xử lí gắn yới thời gian lịch sử như vừa được trình bày đã từng được chúng tôi thảo luận. Đó là trường hợp khi bàn về vị trí của cư dân nói ngôn ngữ Thái – Kadai trong lịch sử Việt Nam thuộc thời gian trước và sau Công nguyên khoảng một hai thế kỉ [Trần Trí Dõi (2017)]. Theo chúng tôi, để có thể giải đáp cho được nhũng nội dung vừa đưa ra, cách tiếp cận tốt nhất sẽ là cách tiếp cận liên ngành (interdisciplinarity); trong đó, có sử dụng phương pháp của ngôn ngữ học so sánh – lịch sử, có cách tiếp cận của khảo cổ học, dân tộc học, v.v… khi phân tích giá trị tư liệu của những ngành khoa học này. Để làm sáng tỏ cách tiếp cận liên ngành như vừa được trình bày, ở đây xin giải thích một số thuật ngữ chính có liên quan sẽ được chúng tôi sử dụng trong bài viết.

Trước hết là những thuật ngữ ngôn ngữ học liên quan đến nghiên cứu lịch sử ngôn ngữ cần thiết trong việc xác định thời gian lịch sử của cách tiếp cận liên ngành. Do vấn đề có liên quan đến ngôn ngữ của những người nói nhóm tiếng Hán nên trước hết đây sẽ là những thuật ngữ của ngôn ngữ học lịch sử tiếng Hán. Đó là thuật ngữ tiếng Hán cổ (Old Chinese, OC) là để chỉ trạng thái tiếng Hán thuộc thời kì từ thượng cổ cho đến khoảng thế kỉ thứ III SCN; thuật ngữ cuối Hán cổ (late Old Chinese, LOC) là để chỉ giai đoạn tiếng Hán thuộc thời kì Đông Hán, khoảng thời gian từ những năm đầu Công nguyên đển sau năm 200. Thuật ngữ Hán trung đại (Middle Chinese, MC) là để nói về tiếng Hán vào khoảng thời gian từ thế kỉ thứ IV đến thế kỉ XII [Baxter, W.H. & Sagart, L. (2014)]; thuật ngữ đầu Hán trung đại (early Middle Chinese, EMC) là tiếng Hán dùng ở triều đại nhà Tấn của Trung Quốc (265-440 SCN). Còn thuật ngữ nhóm tiếng Hán hay chỉ tiếng Hán (Sinitic) là để chỉ những ngôn ngữ hay những phuơng ngữ gốc Hán đang được sử dụng hiện nay ở Trung Quốc. Như vậy, do cư dân văn hóa Đông Sơn đã tiếp xúc với những người nói nhóm tiếng Hán, khi nói về ngôn ngữ của họ, không thể không đổi chiếu với lịch sử của tiếng Hán. Nhờ tiếng Hán là một ngôn ngữ đã được ghi chép lại bằng văn tự vào thời gian lịch sử này, việc so sánh với những giai đoạn phát triển tương ứng của lịch sử tiếng Hán có thể “giúp” chúng ta “gắn” cho ngôn ngữ đó những thời gian phát triển lịch sử cụ thể.

Đối với trường hợp lịch sử tiếng Việt thì hiện nay nội hàm của một vài thuật ngữ ít nhiều đã có khác so với cách gọi tên những từ gốc Hán trước đây do Vương Lực [Wang, L. (1948)] đề xuất và đã được nhiều nhà Việt ngữ học đang sử dụng ở Việt Nam [2]. Đó là, thuật ngữ Hán – Việt (Sino – Vietnamese) là để chỉ những từ gốc Hán được người Việt đọc theo âm tiếng Hán đời Đường được dừng ở Việt Nam từ thiên niên kỉ thứ hai. Trong khi đó, thuật ngữ tiền Hán – Việt (Early Sino – Vietnamese) là để chỉ những từ gốc Hán được người Việt đọc theo âm tiếng Hán cưối thời Tấn trở về trước. Thuật ngữ tiền Hán – Việt chỉ phần nào tương ứng với cách gọi Hán – Việt cổ (Old Sino-Vietnamese) mà Vương Lực và giới Việt ngữ học đã sử dụng. Còn thuật ngữ nhóm Việt hay chỉ Việt (Vietic) hay trước đây còn gọi là nhóm Việt – Mường (Vietmuong group) hoặc Việt – Chứt (Viet – Chut) là cộng đồng những cư dân nói ngôn ngữ gốc Việt thuộc nhánh Môn – Khmer họ Nam Á với biến thể khác nhau mà hiện nay được xác định là những ngôn ngữ như tiếng Mường, tiếng Rục, tiếng Arem, tiếng Mã Liềng, v.v… [Trần Trí Dõi (2011); (201 la)]. Như vậy, điều chứng tôi cần lưu ý ở đây là với nội hàm của một số thuật ngữ như vừa nêu trên, người ta đã xác định thời gian tương đối cho những hiện tượng ngôn ngữ đó trong lịch sử phát triển tiếng Việt.

Ở trường hợp liên quan đến nhóm tiếng Thái (Taic), thuật ngữ Thái (Tai) được dùng trong bài viết không phải là toàn bộ họ Thái – Kadai mà chỉ là một chi nhánh phía nam của họ ngôn ngữ này. Cho nên, khi nói về sự tiếp xúc ngôn ngữ với nhóm tiếng Hán (Sinitic) của nhóm tiếng Thái (Taic) và nhóm tiếng Việt (Vietic) thì thời gian ấy được cho là xảy ra khoảng cuối thời kì phát triển tiếng Hán cổ (LOC), trong khoảng năm 200 TCN đến đầu thời kì Hán trung đại (tương ứng thời gian đầu thuộc triều đại nhà Tấn của Trung Quốc). Khoảng thời gian tương đối này, như vậy về cơ bản, cũng là thời gian của tiền Thái (Proto Tai) và tiền Việt (Proto Vietic) hay Tiền Việt – Mường (Proto Vietmuong). Vào thời gian lịch sử đang được nói đến, thông qua chứng cứ khảo cổ học đã cho biết có sự tiếp xúc văn hóa xã hội giữa cư dân nói nhóm tiếng Thái với cư dân nói nhóm tiếng Việt (Taic – Vietic), nhưng người ta vẫn chưa đưa ra được bằng chứng nào được ghi chép trực tiếp trong lịch sử. Trong trường hợp này, như M. Alves đã nhận xét, dường như người ta chỉ có thể nói đến một truyền thống chung về khảo cổ học: có chung văn hóa trống đồng ở cả vùng Lĩnh Nam (chủ yếu là Quảng Tây, Quảng Đông…) và vùng đồng bằng sông Hồng vào thời gian thiên niên kỉ thứ nhất TCN [Imamura, K. (2006)], [Trình Năng Chung (2014)].

Xin lưu ý rằng, trạng thái ngôn ngữ của cư dân văn hóa Đông Sơn mà chúng ta dự định nói đến thuộc giai đoạn tiền sử của lịch sử ngôn ngữ. Vì thế, hầu như nó không có được những ghi chép lịch sử cụ thể để xác định thời gian. Trong tình trạng ấy, chúng ta phải tuân thủ phương pháp liên ngành, trong đó phương pháp của ngôn ngữ học sẽ cung cấp tư liệu ngôn ngữ, và những tư liệu ngôn ngữ ấy sẽ được kiểm chứng từ chứng cứ khảo cổ qua góc nhìn của lịch sử. Tính chất lịch đại (diachronic) của ngôn ngữ học quy định những thao tác làm việc là của phương pháp so sánh – lịch sử. Theo đó, nó yêu cầu phải tuân thủ nguyên tắc (principle) của âm vị học lịch sử (historical phonology) [3], tức là người nghiên cứu phải dựa vào và tôn trọng kết quả phục nguyên (reconstruction) tiền ngôn ngữ để thiết lập mốc thời gian cho dạng thức của các đơn vị ngôn ngữ trong một nhóm cùng nguồn gốc hay những từ được vay mượn giữa những ngôn ngữ khác nhàu.

Ngoài yêu cầu phải tuân thủ nguyên tắc của âm vị học lịch sử, phương pháp so sánh – lịch sử cũng quy định về nguồn tư liệu được sử dụng để thực hiện phương pháp nghiên cứu. Mặt khác, do thời điểm ngôn ngữ mà chúng ta sẽ bàn luận thuộc vào thời gian tiền sử (không được ghi chép lại) nên tư liệu ngôn ngữ ở thời điểm hiện nay là nguồn dữ liệu ngôn ngữ giữ vai trò quan trọng nhất. Do đó, với không gian địa lí của văn hóa Đông Sơn như đã được; xác định, nguồn tư liệu trước hết sẽ là hiện trạng các ngôn ngữ Nam Á mà đặc biệt là những ngôn ngữ của cư dân nói nhóm tiếng Việt đang được sử dụng trong vùng địa lí văn hóa Đông Sơn ở Đông Nam Á. Sau nguồn tư liệu đó, sẽ là nguồn tư liệu của những ngôn ngữ Thái khác nhau, bao gồm cả hạng thái nhóm tiếng Thái hiện nay và những dạng thức tái lập tiền Thái (proto Tai) của Lý Phương Quế [Li, F.K. (1977)] và của P. Pittayapom [Pittayapom, p. (2009)].

Từ hai nguồn tư liệu chính đó, đương nhiên người ta phải xem xét mối tương quan giữa những từ tiền Thái với những từ tiền Hán – Việt (Early Sino – Vietnamese). Bởi vì, như A.G. Haudricourt nhận xét: “Trong cả ngàn năm, một hay hai thế kỉ trước Công nguyên cho tới thế kỉ X, người Thái và người Việt đều đã sống dưới sự thống trị của Trung Hoa” [Haudricourt, A.G. (1953): 19], nên về mặt ngôn ngữ người ta không thể không xem xét sự tiếp xúc (contact) ngôn ngữ giữa những cư dân nói nhóm tiếng Hán với cư dân nói nhóm tiếng Thái và nhóm tiếng Việt trong thời kì văn hóa Đông Sơn. Và cũng vì thế, chúng tôi cho rằng nguồn tư liệu ngôn ngữ mà cả người Thái và người Việt vay mượn từ nhóm tiếng Hán sẽ là nguồn tư liệu quan trọng thứ ba phải được sử dụng để xử lí vấn đề đang được chúng ta quan tâm. Trong một chừng mực nhất định, nguồn tư liệu thứ ba này cho chúng ta biết rất nhiều những thông tin lịch sử cụ thể mà nhiều nguồn dữ liệu khác không thể hiện được.

Tuy nhiên, người ta phải cần có thêm những nguồn dữ liệu khác thuộc nhóm tư liệu thứ tư để có thể đáp ứng được yêu cầu của phương pháp nghiên cứu. Đó sẽ là dạng thức tái lập Hán cổ (OC) và Hán trung đại (MC) mà A. Schuessler [Schuessler, A. (2007)] cũng như W. Baxter và L. Sagart [Baxter, W.H. & Sagart, L. (2014)] đã tái lập. Nguồn dữ liệu tái lập này tuy không có niên đại thực sự chính xác nhưng nó cho phép chúng ta, trên nguyên tắc, phân biệt các dạng thức từ tiếng Hán thuộc nửa đầu và nửa sau của thiên niên kỉ thứ nhất SCN.

Để làm rõ cách thức tiếp cận liên ngành, chúng tôi trình bày một trường hợp về cách thức xác định thời gian tuyệt đối của một từ dựa trên việc đồng thời sử dụng tư liệu của ngôn ngữ học, của khảo cổ học, dân tộc học và sử học. Đó là cách thức xác định trường hợp từ ngói gốc Hán đang dùng trong tiếng Việt hiện nay mà M. Alves [Alves, M. (2019): 25] đã nêu ra. Theo đó, từ ngói của tiếng Việt hiện nay là một từ gốc Hán thuộc lớp tiền Hán – Việt (ESV); dạng thức ngữ âm Hán – Vỉệt(SV) của từ này là ngõa (chữ Hán là 瓦). So sánh nó trong tiếng Việt và nhóm tiếng Thái, chúng ta có kết quả như sau:

Như mọi người đều biết, cả Lý Phương Quế lẫn P. Pittayapom đều thống nhất không tái lập dạng thức từ chỉ “ngói” trong thời kì proto Thái [6]. Cho nên rõ ràng khả năng ở vào thời gian cuối giai đoạn Hán cổ, nhóm tiếng Thái vẫn còn chưa vay mượn từ gốc Hán này. Dạng thức ngữ âm /ηɔ:j33/ trong tiếng Thái Yo ở Trung Bộ Việt Nam, do không bảo lưu dạng thức âm lướt /r/ trong Hán cổ, và dạng thức ngữ âm tiếng Tày ngoạ đã góp phần chứng minh là nhóm tiếng Thái mượn từ gốc Hán này vào thời kì rất muộn về sau. Nhờ so sánh dạng thức từ ngói trong tiếng Việt với dạng thức tái lập của tiếng Hán cổ, dạng thức tái lập tiếng Hán trung đại và với dạng thức Hán – Việt trong tiếng Việt, ngôn ngữ học lịch sử đã cho biết rằng, từ gốc Hán ngói thuộc lớp tiền Hán – Việt này được người Việt vay mượn vào quãng thời gian cuối giai đoạn Hán cổ (khoảng từ 200 năm TCN đến sau năm 200). Trong khi đó, những cư dân nói nhóm tiếng Thái vay mượn nó vào quãng thời gian thuộc giai đoạn: tiếng Hán trung đại, tức là sau thời gian hiện diện triều đại nhà Tấn Trung Quốc.

Cách thức nhận diện thời gian của từ tiền Hán – Việt ngói trong tiếng Việt mà ngôn ngữ học thực hiện đã được tư liệu của khảo cổ học xác nhận. Theo nghiên cứu mà Viện Khảo cổ đã công bố thì tại di chỉ thành cổ Loa của ‘‘nước Âu Lạc” có hàng ngàn viên ngói kiểu Trung Quốc đã được phát lộ: với niên đại khoảng vào 200 năm TCN [Kim, N.c. (2010)]. Rõ ràng, với chứng cứ của ngôn ngữ học lịch sử và kết quả khảo sát của khảo cổ học, người ta có cơ sở để giả định rằng, từ ngói đã được cư dân nói nhóm tiếng Việt vay mượn trực tiếp từ cư dân nói nhóm tiếng Hán vào thời kì văn hóa Đông Sơn. Trong khi đó, bộ phận cư dân nói nhóm tiếng Thái vào quãng thời gian đó còn chưa vay mượn từ gốc Hán này. Như vậy, đối với trường hợp từ ngói gốc Hán, cách tiếp cận liên ngành cho phép giới nghiên cứu xác định: cư dân nói nhóm tiếng Việt thời văn hóa Đông Sơn đã sử dụng ngôn ngữ độc lập với cư dân nói nhóm tiếng Thái trong cùng thời gian lịch sử.

2. Những giả thiết về “ngôn ngữ” của cư dân văn hóa Đông Sơn

Theo M. Alves, có nhiều ý kiến khác nhau về ngôn ngữ mà cư dân văn hóa Đông Sơn đã sử dụng [Alves, M. (2019): 6]. Qua phân tích của M. Alves và kết hợp với phân tích của chúng tôi, có lẽ, về thực chất những ý kiến khác nhau ấy cũng có thể được quy về ba giả thiết [8] như sẽ trình bày dưới đây.

2.1. Giả thiết “tiếng Thái là ngôn ngữ chính” của cư dân Đông Sơn

Giả thiết này là quan niệm của H. Maspero khi ông cho rằng “tiếng Việt có nguồn gốc Thái” [Maspero, H. (1912): 118] [8]. Nội dung đầy đủ của giả thiết này là cư dân văn hóa Đông Sơn chủ yếu nói nhóm tiếng Thái (Taic), còn nhóm tiếng Việt (Vietic) tuy có ảnh hưởng nhưng không nhiều. Giả thiết này của ông được nhiều nhà nghiên cứu nhân văn ở Việt Nam cũng như ở nước ngoài tán đồng với những mức độ khác nhau [9]. Trong số đó, gần đây nhất và nổi bật hơn cả là giả thiết của nhóm J.R. Chamberlain nhờ cách tiếp cận và dẫn giải chứng cứ rất tổng hợp của ông. Theo M. Alves thì nhóm J.R. Chamberlain giải thích: tiếng Thái phải là ngôn ngữ chính của cư dân ở đồng bằng sông Hồng từ thời văn hóa Đông Sơn đến thế kỉ thứ X sau Công nguyên [Chamberlain, J.R. (1998, 2016, 2018)] và [ Kiernan, B. (2017)]. Những lập luận mà nhóm này đưa ra để chứng minh cho giả thiết, như vậy, được viện dẫn từ cả tư liệu ngôn ngữ học và tư liệu lịch sử.

Alves (2019) diễn giải chi tiết lập luận của J. Chamberlain như sau: Ở góc nhìn lịch sử, ông cho rằng lịch sử người Việt đã ghi nhận một giả thuyết là vào thời tiền sử các tộc người Việt tiến từ phía nam ra phía bắc và cuối cùng lưu lại ở đồng bằng sông Hồng. Cuộc “bắc tiến” ấy kết thúc vào thế kỉ thứ X. Ở góc nhìn ngôn ngữ tộc người, tộc danh /kew/ (“keo”) trong tiếng Thái để chỉ người Việt. Đồng thời tộc danh này cũng được một vài ngôn ngữ nhóm Thái dùng để chỉ người Thái. Dấu tích của hiện tượng ấy còn lưu lại trong bài thơ bằng tiếng Thái cổ và trong một ngôn ngữ thuộc nhóm Kradai. Từ đó, nhóm J. Chamberlain cho rằng, tộc danh chỉ người Việt Giao Chỉ cũng chính là tộc danh để chỉ người Thái trong khu vực. Ở góc nhìn ngôn ngữ, nhóm J. Chamberlain viện dẫn hai nguồn dữ liệu mà ông cho là rất quan trọng là nguồn tư liệu cư dân nói nhóm tiếng Việt vay mượn từ tiếng Hán. Phân tích của J. Chamberlain cho rằng, người Việt đã vay mượn những từ gốc Hán thông qua tiếng Thái vào quãng thiên niên kỉ thứ nhất khi ông viết: “Hầu hết, nếu như không muốn nói là tất cả, các từ tiền Hán – Việt đều được tìm thấy trong Proto-Tai và Proto-Kam-Tai bởi vì những nhóm người này đã có mối quan hệ lâu dài hơn và gần gũi hơn không thể chối cãi với Hán cổ” [10] [Chamberlain, J. (2018): 158], Sau đó, như cách lập luận của ông, ở phần lãnh thổ phía nam, phương ngữ tiếng Việt đa dạng hơn phần phía bắc. Và chính đặc điểm ngôn ngữ này đã thể hiện rằng, “cái nôi (homeland)” của cư dân nói nhóm tiếng Việt thuộc về phần lãnh thổ phía nam.

2.2. Giả thiết “cư dân văn hóa Đông Sơn” nói nhóm tiếng Việt

Một giả thiết thứ hai cho rằng, “cư dân văn hóa Đông Sơn” ở đồng bằng sông Hồng nói nhóm tiếng Việt, còn cư dân nói nhóm tiếng Thái chỉ là bộ phận cư dân láng giềng trong thời kì văn hóa ấy. Giả thiết này được coi như là giả thiết sớm nhất khi vào năm 1856, J. Logan đưa ra thuật ngữ “Môn-Annam” (tức là những ngôn ngữ Nam Á, Austroasiatic), và về sau nhiều nhà nghiên cứu khác đã tiếp tục ý tưởng ấy [Trần Trí Dõi (2011a): 78]. Năm 1942, vấn để trở nên rõ ràng hơn khi Benedict cho rằng tiếng Việt thuộc hệ Môn – Khmer (Mon-Khmer) còn tiếng Thái thuộc hệ Nam – Thái (Austro – Tai) [Benedict, p. (1942)]. Nhưng có lẽ giả thiết này rõ ràng và đầy đủ nhất là khi A.G. Haudricourt (năm 1953, 1954) chứng minh tiếng Việt thuộc Môn – Khmer của họ ngôn ngữ Nam Á (Austroasiatic) [Haudricoưrt, A.G. (1953, 1954)]. Sau chứng minh của A.G. Haudricourt, đã có nhiều ý kiến tán đồng giả thiết ấy và chứng tôi đã tổng kết lại khi trình bày vấn đề nguồn gốc Nam Á của tiếng Việt vào năm 2011 [Trần Trí Dõi (2011a): 78-97].

2.3. Giả thiết “cư dân văn hóa Đồng Sơn” nói nhóm ngôn ngữ khác

Ngoài hai giả thiết chính đã trình bày ở trên, trong giới nghiên cứu cũng đã có ý kiến cho rằng cư dân văn hóa Đông Sơn nói những ngôn ngữ khác. Từ góc nhìn nguồn gốc người Việt, năm 1972, Bình Nguyên Lộc đã từng cho rằng tiếng Việt cổ là một thứ tiếng thuộc nhóm Mã Lai [Bình Nguyên Lộc (1971)] của họ Nam Đảo. Mặt khác, chính A.G. Haudricourt (1966) cũng đã nói đến “những từ chung nhau” giữa Nam Đảo và Môn – Khmer, nhưng ông chỉ đặt ra vấn đề để thảo luận mà thôi [Haudricourt, A.G. (1966): 33]. Ngoài ra, vào năm 1838, J.L. Taberd cũng đã có ý kiến cho rằng tiếng Việt “là bộ phận” của tiếng Hán.

Về những ý kiến thuộc giả thiết thứ ba này, như những gì mà chúng tôi đã phân tích vào năm 2011 [Trần Trí Dõi (2011a): 61-68], những chứng cứ được dẫn ra để chứng minh còn chưa được xác định hay chưa phù hợp với nguyên tắc xác định cội nguồn ngôn ngữ của ngôn ngữ học lịch sử. Cho nên, những ý kiến ấy hầu như rất ít được giới nghiên cứu chú ý đến. Ngoài ra, năm 2013, một tác giả khác là Tạ Đức, qua so sánh từ ngữ hiện đang có giữa nhiều ngôn ngữ thuộc những họ khác nhau trong khu vực, đã cho rằng người Việt và người Mường có khả năng đến từ vùng phía nam sông Dương Tử, và do đó “ngôn ngữ Đông Sơn” phải có địa lí ban đầu thuộc vùng lãnh thổ phía bắc [Tạ Đức (2013)]. Cách liên hệ và diễn giải về từ chỉ “người” trong ngôn ngữ Việt Nam và Đông Nam Á của ông [Tạ Đức (1999)] đã cho thấy, hình như đối với ông, sự tương ứng ngôn ngữ không có sự biến đổi từ thời tiền sử đến nay; do đó, cả vùng Đông Nam Á và nam Trung Quốc chỉ là một bức tranh ngôn ngữ chung.

3. Ý kiến của chúng tôi về những giả thiết đã được nêu ra

Ở góc nhìn ngôn ngữ học, vào năm 2011, trước khi có ý kiến mới của J. Chamberlain nêu lí do để ủng hộ cho giả thiết “tiếng Thái là ngôn ngữ chính” của cư dân Đông Sơn [Chamberlain, I. (2018)], chúng tôi đã phân tích và đi đến kết luận rằng: “tiếng Việt, xét về mặt nguồn gốc, phải được coi là một ngôn ngữ thuộc họ Nam Á, nhánh ngôn ngữ Môn – Khmer, nhóm Việt – Mường” [Trần Trí Dõi (201 la): 92]; và đó là cơ sở để chúng tôi ủng hộ giả thiết “cư dân văn hóa Đông Sơn” nói nhóm tiếng Việt gốc Nam Á. Ở đây, để tiếp tực ủng hộ cho giả thiết đó, chúng tôi xin trao đổi thêm về hai nghiên cứu ngôn ngữ học mới sau năm 2011 có liên quan đến câu hỏi “Người Đông Sơn sử dụng ngôn ngữ nào?”.

3.1. Vấn đề vay mượn tiếng Hán của cư dân Đông Sơn

Để tiếp tục giả thiết đã được H. Maspero nêu ra năm 1912 và năm 2018, viện dẫn những từ gốc Hán thuộc lớp tiền Hán – Việt ((Early Sino – Vietnamese, ESV) trong tiếng Việt và đặc điểm về tính đa dạng hơn của phương ngữ Việt thuộc phần lãnh thổ phía nam so với phần phía bắc [11], J. Chamberlain đã trình bày lập luận như sau: Thứ nhất, ông cho rằng: “Hầu hết, nếu như không muốn nói là tất cả, các từ tiền Hán – Việt đều được tìm thấy trong Proto – Tai và Proto-Kam-Tai bởi vì những nhóm người này đã có mối quan hệ lâu dài hơn và gần gũi hơn không thể chối cãi với Hán Cổ [Chamberlain, J. (2018): 158], Thứ hai, đối với ông, phương ngữ Việt thuộc phần lãnh thổ phía nam đa dạng hơn lãnh thổ phía bắc. Với hai đặc điểm ấy, “cái nôi (homeland)” của cư dân tiền Đông Sơn là ở phần phía nam; còn ở giai đoạn Đông Sơn, tiếng Việt của cư dân tương tự như như tiếng “Proto – Tai và Proto-Kam-Tai” [Chamberlain, J. (2018): 158].

Có thể nhận thấy, trong hai cơ sở dữ liệu mà J. Chamberlain dẫn ra để chứng minh cho lập luận của mình, chính bản thân học giả này cũng đã phải thừa nhận rằng, phương ngữ học tiếng Việt nói chung và phần phương ngữ thuộc lãnh thổ phía bắc còn chưa được khảo cứu đầy đủ [12]. Và trên thực tế, phần phương ngữ Việt phía bắc, nếu được nghiên cứu từ góc nhìn lịch sử, cũng sẽ rất “đa dạng”. Tiếc rằng, vẩn đề này còn chưa được Việt ngữ học nói: chung và phương ngữ học Việt ngữ miêu tả ở mức cần thiết. Chính vì vậy, vẫn còn chưa đủ lí do để có thể nghĩ rằng phương ngữ Việt thuộc phần lãnh thồ phía bắc không thể hiện giá trị “cái nôi (homeland)” của cư dân nói nhóm tiếng Việt. Có lẽ vì thế, về bản chất, lập luận của J. Chamberlain trình bày năm 2018 tập trung vào phân tích lớp từ tiền Hán – Việt (ESV) trong cư dân nói nhóm tiếng Việt và những từ tiền Thái (Proto – Tai, PT) của cư dân nói nhóm tiếng Thái.

Xin nhắc lại rằng, theo J. Chamberlain, những từ tiền Hán – Việt mà cư dân nói nhóm tiếng Việt sử dụng “đều được tìm thấy trong Proto – Tai”. Cho nên, vì thế, phải coi tiếng Thái mới là ngôn ngữ chính của cư dân ở đồng bằng sông Hồng vào thời văn hóa Đông Sơn. Tuy nhiên, những phân tích mà M. Alves dẫn ra [Alves, M. (2019)] dường như đã không ủng hộ lập luận như thế của J. Chamberlain. Điều quan trọng là những phân tích cũng như ngữ liệu được M. Alves sử dụng thỏa mãn hay tuân thủ hơn đối với nguyên tắc của âm vị học lịch sử trong nghiên cứu lịch sử ngôn ngữ. Theo đó, thứ nhất, chúng tôi đồng ý với cách nhìn cùa M. Alves khi ông cho rằng, về mặt từ nguyên những giả thuyết cho rằng cư dân nói nhóm tiếng Việt vay mượn những từ Thái cổ giai đoạn tiền Thái (proto Tai) là chưa thỏa mãn nguyên tắc của ngôn ngữ học lịch sử [Alves, M. (2019): 9]. Trong một nghiên cứu đã công bố về những tương ứng giữa một số từ Việt – Thái trong tiếng Việt [Trần Trí Dõi (2004): 94-97; (2011a): 68-77], chúng tôi cũng đã góp phần giải thích tình trạng đó. Thứ hai, M. Alves cũng đã chứng minh những vay mượn từ nhóm Hán trong tiếng Thái ở giai đoạn tiền Thái (proto Tai) tạo thành lớp Hán – tiền Thái (Sino – proto Tai) và trong tiểng Việt ở giai đoạn tiền Việt (proto Vietic) tạo thành lớp từ tiền Hán – Việt dường như là khác nhau [Alves, M. (2019): 12], Theo M. Alves, trong hơn 160 mục từ gốc Hán thuộc lớp tiền Thái, chỉ có gần một nửa (85 trường hợp) là hiện diện ở từ tiền Hán – Việt. Hơn nữa, ngữ nghĩa những từ gốc Hán ấy là khác nhau trong tiếng tiền Thái và trong từ tiền Hán – Việt, vì thế nó phản ánh cả hai ngôn ngữ vay mượn một cách độc lập từ nhóm tiếng Hán ở giai đoạn Hán cổ. Mặt khác, số lượng từ gốc Hán trong tiếng tiền Thái và trong từ tiền Hán – Việt có số lượng lớn hơn nhiều so với những từ chung giữa từ tiền Thái và tiền Hán – Việt. Điều đó chứng tỏ mức độ tiếp xúc giữa nhóm tiếng Hán với nhóm tiếng Thái và tiếp xúc giữa nhóm tiếng Hán với nhóm tiếng Việt là khác nhau. Cũng theo Alves, nếu căn cứ vào biến đổi ngữ âm và thanh điệu thì sự giống nhau thuộc những từ thương mại, nhưng khác về các động từ, khác về khái niệm, khác về từ chỉ bộ phận cơ thể, khác về từ chỉ công cụ sản xuất, khác về từ biểu thị quan hệ họ hàng, v.v… và khác cả về những từ chỉ có chức năng ngữ pháp [Alves, M. (2019): 17-28]. Những khác nhau giữa lớp Hán – tiền Thái và lớp tiền Hán – Việt mà M. Alves dẫn ra đủ để nói rằng, những từ tiền Hán – Việt mà cư dân nói nhóm tiếng Việt sử dụng “đều được tìm thấy trong Proto – Tai” mà J. Chamberlain khẳng định là chưa đủ cơ sở.

Trên cơ sở phân tích tư liệu ngôn ngữ như trên, kết hợp với kết quả nghiên cứu khảo cổ học về di truyền cho rằng “ngữ hệ Nam Á tại đồng bằng sông Hồng đã có từ 2000 năm trước Công nguyên” [Alves, M. (2019): 30] [13], M. Alves đưa ra một kết luận của mình. Theo đó, trong những giả thuyết khác nhau về “cư dân nói ngôn ngữ nào” thì giả thuyết “được nhiều người ủng hộ nhất” là giả thuyết sau đây; Vào thời văn hóa Phùng Nguyên, dân số thuộc đồng bằng sông Hồng chủ yếu là người nói ngôn ngữ Nam Á. Còn vào thời văn hóa Đông Sơn, cư dân Nam Á ấy dần dần tách ra thành những bộ phận cư dân nói những ngôn ngữ thuộc nhóm tiếng Việt (Vietic); và có thể những cư dân này “có liên hệ” ít nhiều với những cư dân láng giềng nói những ngôn ngữ thuộc nhóm tiếng Thái (Taic).

4. Kết luận

Trong tình trạng nghiên cứu hiện nay, tuy hiện diện nhiều giả thiết khác nhau về “ngôn ngữ của cư dân văn hóa Đông Sơn”, nhưng giả thiết cho rằng cộng đồng cư dân này chủ yếu nói những ngôn ngữ thuộc nhóm tiếng Việt (Vietic) và “có liên hệ” với cư dân láng giềng nói những ngôn ngữ thuộc nhóm tiếng Thái (Taic) là giả thiết được tư liệu ngôn ngữ cũng như tư liệu khảo cổ học và lịch sử ủng hộ nhiều nhất. Và vì thế, nó cũng được nhiều nhà nghiên cứu lịch sử ngôn ngữ và văn hóa xã hội Việt ở thời kì văn hóa Đông Sơn tán đồng ở mức độ khác nhau.

GS. TS. Trần Trí Dõi
Trường Đại học KHXH&NV, Đại học Quốc gia Hà Nội.
LSTV số hóa từ pdf đăng trên trang Ngôn Ngữ Học.


Chú thích:

[1] Xin lưu ý là trong một số tài liệu mà chúng tôi công bố, nhóm tiếng Việt (Vietic) thường được chúng tôi gọi là nhóm Việt – Mường (group Vietmuong). Còn theo cách gọi của Lý Phương Quế thì nhóm Thái là những ngôn ngữ thuộc Southwestern Tai (Thái Tây Nam), nhóm Tày – Nùng thuộc nhóm Central Tai (Thái Trung tâm), xin xem [Li, P.K..(1977): 1].

[2] Theo thuật ngữ mà Vương Lực sử dụng, những từ Việt gốc Hán được ông dùng là cổ Hán Việt, Hán Việt và Hán Việt Việt hóa. Cách dùng của ông cho đến hiện nay vẫn được nhiều nhà nghiên cúu từ vựng tiếng Việt sử dụng.

[3] Để tránh làm phức tạp vấn đề, chúng tôi xin không trình bày chi tiết trong bài viết những nội dung liên quan đến nguyên tắc của âm vị học lịch sử. Tuy nhiên, trong ngôn ngữ học, nguyên tắc này được trình bày rất nhiều trong những nghiên cứu ở Việt Nam và nước ngoài, ở Việt Nam, người quan tâm đến nguyên tắc này có thể theo dõi trong hai công trình của Nguyễn Tài cẩn (1995) và Trần Trí Dõi (2011).

[4] Tư liệu nhóm Thái: tiếng Tày ở [Hoàng Văn Ma… (2005): 373]; còn tư liệu Thái Yo ở Nghệ An (Trung Bộ – Việt Nam) do Sầm Công Danh là người Thái địa phương cung cấp. Xin chân thành cảm ơn.

[5] Ở đây dạng thức tiếng Hán cổ và Hán trung đại được chúng tôi lấy từ [Baxter, W. & Sagart, K. (2014)].

[6] Xin xem: Lý Phương Quế [Li, F.K. (1977)] và P. Pittayapom [Pittayapom, p. (2009)].

[7] Còn cái cách mà M. Alves cho rằng “ảnh hưởng của cư dân nói nhóm tiếng Thái và nói nhóm tiếng Viêt là như nhau” thì về thực chất cũng là cách nhìn cực đoan.

[8] Nguyên văn tiếng Pháp “e’est, je pense, à la famille thai que la langue annamite doit éhe rattachée” [Maspéro, H. (1912): 118].

[9] Ví dụ ở Việt Nam chẳng hạn, thể hiện rõ nhất là ý kiến của Hoàng Thị Châu [Hoàng Thị Châu (1998)], của nhóm Phạm Đức Dương [Phạm Đức Dương (2007)], Hoàng Lương [Hoàng Lương (2010)] và Trịnh Sinh [Trịnh Sinh (2015)], v.v… Trong đó, ý kiến của Hoàng Thị Châu thuần túy từ góc nhìn ngôn ngữ học; ý kiến cúa nhóm Phạm Đức Dương hay Hoàng Lương nghiêng về “ngôn ngữ tộc người”; còn ý kiến của Trịnh Sinh là từ suy luận cùa “khảo co học”.

[10] Nguyên văn tiếng Anh của J. Chamberlain: “Most if not all of the Early Sino-Vietnamese vocabulary are found in Proto-Tai and Proto-Kam-Tai as these peoples had indisputedly longer and closer relationships with Old Chinese” [Chamberlain, J. (2018): 158].

[11] Xin lưu ý là “phần lãnh thổ phía nam và phía hẳc” mà J. Chamberlain nói đến chỉ là vùng phương ngữ Bắc Trung Bộ và Bắc Bộ của tiếng Việt hiện nay.

[12] Xin xem nguyên văn: “Việc nghiên cứu đầy đủ hơn nữa về phương ngữ Việt, nhất là về từ vựng, cần phải được thực hiện (More complete dialectology of Vietnamese, especially lexicon, needs to be carried out)” [Chamberlain, J. (2018): 159].

[13] Theo M. Alves, kết quả nghiên cứu khảo cổ học về di truyền tại đồng bằng sông Hồng được ồng dẫn theo [Corny, J. et al (2017); Lipson, M. et al (2018); McColl et al (2018)].


TÀI LIỆU THAM KHẢO CHÍNH

  1. Bình Nguyên Lộc (1971), Nguồn gốc Mã Lai của dân tộc Việt Nam, Bách Bộc xuất bản, Sài Gòn.
  2. Hà Văn Tân (1970), Niên đại các văn hóa đồ đồng miền bắc Việt Nam với vẩn đề Hùng Vương, in trong Hùng Vương dựng nước, Tập I, Nxb KHXH, Hà Nội.
  3. Hà Văn Tấn (1997), Theo dấu các văn hóa cổ, Nxb KHXH, Hà Nội.
  4. Hán Văn Khẩn (2011), vẩn đề nông nghiệp thời đại sắt sớm ở Bẳc Việt Nam, in trong Một chặng đường nghiên cứu lịch sử (2006-2011), Nxb Thể giới, Hà Nội.
  5. Hoàng Lương (2010), Những địa danh Tày – Thái cổ xung quanh vùng Hà Nội, ( T/c Dân tộc học, sổ 4.
  6. Hoàng Thị Châu (1998), Xem lại quan hệ giữa tiếng Việt và ngành Thái qua một so tộc từ, T/c Ngôn ngữ, số 3.                                                               :
  7. Hoàng Văn Ma – Lục Văn Pảo (2005), Từ điển Việt – Tày-Nùng, Nxb Từ điển bách khoa, Hà Nội.
  8. Nguyễn Tài Cẩn (1995), Giáo trình lịch sử. ngữ âm tiếng Việt (Sơ thảo), Nxb GD, Hà Nội.
  9. Phạm Đức Dương (2007), Bức tranh ngôn ngữ – văn hóa tộc người ở Việt Nam và Đông Nam Ả, Nxb ĐHQG Hà Nội.
  10. Tạ Đức (1999), Nguồn gốcsự phát triển của Kiển Trúc – Biểu tượng và Ngôn ngữ Đông Sơn, Hội Dân tộc học Việt Nam, Hà Nội.
  11. Tạ Đức (2013), Nguồn gốc người Việt – người Mường, Nxb Trì thức, Hà Nội.
  12. Trần Quốc Vượng (1970), Từ truyền thuyết, ngữ ngôn dển lịch sử, ìn trong Hùng Vương dựng nước, Tập I, Nxb KHXH, Hà Nội.
  13. Trần Trí Dõi (2011), Một vài vẩn đề nghiên cứu so sánh – lịch sử nhóm ngôn ngữ Việt – Mường, Nxb ĐHQG Hà Nội.
  14. Trần Trí Dõi (2011a), Giáo trình lịch sử tiếng Việt, Nxb GD Việt Nam, H.
  15. Trân Trí Dõi (2015), Các họ ngôn ngữ ở Việt Nam (The language Families in Vietnam), Nxb ĐHQG Hà Nội.
  16. Trần Trí Dõi (2016), Ngôn ngữ các dân tộc thiểu số ở Việt Nam (Language of ethnic minorities in Vietnam), Nxb ĐHQG Hà Nội. 
  17. Trần Trí Dõi (2017), Trao đổi về vị trí của cư dân nói ngôn ngữ Thái – Kadai trong lịch sử Việt Nam thời tiền sử, In trong Phát huy vai trò, bản sắc cộng đồng các dân tộc Thái – Kadai trong hội nhập và phát triển bền vững (Hội nghị Quốc gia về Thái học lần thứ VIII năm, 2017), Nxb Thế giới, Hà Nội.
  18. Trần Trí Dõi (2004), Tay – Thai And Việt – Mường Cultural Contact ỉn Vietnam: through the Analysis of Some Vocabulary Related to Water Paddy civilization, Papers of The IC THAI – DAI Cultural Studies, Yunnan ASS and Yunnan UN, China.
  19. Trình Năng Chung (2014), Ảnh hưởng của văn hóa Đông Sơn -Ở vùng Lưỡng Quảng, Trung Quốc, in trong Giao lưu văn hóa góp phần tăng cường nền tảng quan hệ Việt Nam – Trung Quốc, Nxb Hồng Đức, Hà Nội, tr. 201-215.
  20. Trịnh Sinh (2015), Người Thái và văn hóa Đông Sơn, In trong Cộng đồng Thái – Kadai Việt Nam những vấn đề phát triển bền vững, Nxb Thế giới, H., tr. 105-113.
  21. Alves, J.M. (2016), Identifying Early Sino-Vietnamese Vocabulary via Linguistic, Historical, Archaeological, and Ethnological Data, Bulletin of Chinese Linguistics 9 (2016), p 264-295.
  22. Alves, J.M. (2019), Dữ líệu liên ngành: chi Vỉetic kết nối với văn hóa Đông Sơn, Báo cáo tại Trường Đại học KHXH&NV – Đại học Quốc gia Hà Nội.
  23. Baxter, W.H. & Sagart, L. (2014), Old Chinese a new reconstruction, Oxford University Press.
  24. Benedict, P.K. (1942), Thai, Kadai and Indonesian: a new alignment in Southseastern Asia, American Anthropologist, 44. pp 576-601.
  25. Calo, A. (2008), Heger I bronze drums and the relationships between Dian and Dong Sun cultures, In Interpreting Southeast Asia’s Past: Monument, Image and Text, Peter Sharrock, Ian c. Glover, Elizabeth A Bacus, 208 – 224, Singapore: National University of Singapore Press.
  26. Corny, J. et al (2017), Dentalphenotipic shape variation supports a multiple dispersal model for anatomically hurmans in Southeast Asia, Journal of Hurman Evolution 112, pp 41-56.
  27. Chamberlain, J.R, (1998), The Origin of the Sek: Implications for Tai and Vietnamese History, Journal of the Siam Society, 86.1& 86.2, pp 27-48.
  28. Chamberlain, J.R. (2016), Kra – Dai and Proto-History of South China and Vietnam, Journal of the Siam Society, Vol 104, pp 27-77.
  29. Chamberlain, J.R. (2018), A Kri-Mol (Vietic) Bestiary: Prolegomena to the Study of Ethnozoology in the Northerm Annamites, Kyoto Working Papers on Area Studies, Kyoto University.
  30. Corny, J. et al (2017), Dentalphenotipic shape variation supports a multiple dispersal model for anatomically hurmans in Southeast Asia, Journal of Hurman Evolution 112, pp 41-56.
  31. Ferlus, M. (2007), A Layer of Dongsonian Vocabulary in Vietnamese, The 17th Annual Meeting of the SALS, Univ, of Maryland, USA, 15pp.
  32. Ferlus, M. (2011), Les Băiyuè (ẼÍ/ỈỀ) OU les ‘pays des (horticuỉteurs/ mangeurs de) tubercules”24 èm e Journees d e Linguistique de 1 ’Asie Orientale, 30 juin- lerjuillet 2011, Paris, 12 pp.
  33. Haudricourt, A.G. (1953), Vị trí của tiếng Việt trong các ngôn ngữ Nam Ả, T/c Ngôn ngữ, Số 1, 1991.
  34. Haudricourt, A.G. (1954), Về nguồn gốc các thanh của tiếng Việt, T/c Ngôn ngữ, Số 1, 1991.
  35. Haudricourt, A.G. (1966), Giới hạn và nổi kểt của ngôn ngữ Nam Ả ở Đông Bắc, T/c Ngôn ngữ, số 1, 1991.
  36. Imamura, K. (2006), The distribution of bronze drums of the Heger I and pre-I type: temporal changes & historical background, Paper át IPPA 2006.
  37. Kiernan, B. (2017), Vietnam: A history earliest times to the present, Oxford Univerty Press.
  38. Kim, N.C., Lại Văn Tới and Trịnh Hoàng Hiệp (2010), Co Loa: an investigation of Vietnam’s ancient capital, Antiquity 84, pp 1011-1027.
  39. Li, F.K. (1977), A Handbook of Comparative Tai, The Univertify Press Hawai.
  40. Lipson, M. et al (2018), Ancient genomes document multiple waves of migration in Southeast Asian prehisstory, Science 2018 Jul 6; 361 (6397): 92-95 (doi: 10.1126/science.aat3188 (Epub 2018 May 17).
  41. Maspéro, H. (1912), Etude sur laphonẻtique hỉstorỉque de la langue annamỉte: Le s initiales, BEFEO, XII, n°l, pp 1-127.
  42. McColl et al (2018), Ancient Genomics Reveals Four Prehistoric Migration Waves into Southeast Asia, Published in Science. https://www.biorxiv.org/content/10.1101/278374vl.
  43. Pittayapom, p. (2009), The phonology of Proto-Tai, Doctoral dissertation, Department of Linguistics, Cornell University, 417 p.
  44. Sagart, L. (2004), Sino – Tibetan – Austronesian An updated and improved argument, from the Origins de I’homme, origine du langage, orlgine des langues”, Progamme of the CNRS, Paris, pp 163 -178.
  45. Schuessler, A. (2007), ABC Etymological Dictionary of Old Chinese. Honolulu: University of Hawai‘i Press.
  46. Wang, L. (Vương Lực) (1948), Hán Việt ngữ nghiên cứu, Học báo Lĩnh Nam, Kỳ I, Tập 9, tr. 1- 96.

Bình luận về bài viết này

Trang web này sử dụng Akismet để lọc thư rác. Tìm hiểu cách xử lý bình luận của bạn.