553. ☀ Khái niệm tộc Việt và nguồn gốc cộng đồng tộc Việt

Các tài liệu nghiên khoa học là di truyền, khảo cổ, nhân chủng, văn hóa, ngôn ngữ, và bên cạnh đó là các tài liệu lịch sử đã cho chúng ta thấy cơ sở thống nhất và gắn bó rất chặt chẽ của cộng đồng tộc Việt trong thời gian tồn tại [1], họ từng được xem là những bộ lạc và những sắc dân không có liên hệ với nhau, được người Hoa Hạ sử dụng để chỉ chung các dân tộc phi Hoa Hạ ở miền nam Đông Á thời cổ đại, nhưng các bằng chứng khoa học đã cho thấy tộc Việt có cùng nguồn gốc, phát triển và hòa huyết trong một cộng đồng chung trong một thời gian rất dài, có nhà nước chung, ý thức dân tộc, và có một nền văn hóa thống nhất. Cộng đồng này dần tan vỡ dưới những bước chân xâm lược của người Hoa Hạ trong các triều đại Thương, Sở, Tần, Hán.

Trong bài viết này, chúng tôi sẽ đi tìm hiểu về nguồn gốc tên gọi Việt, ý thức dân tộc Việt qua các tài liệu khảo cổ, ngôn ngữ và từ văn tự Trung Hoa, để từ đó có thể thấy được tên Việt là tên người Việt tự nhận, sau đó được người Hoa Hạ tiếp nhận và ghi chép lại dưới cái tên tự nhận của người Việt này. Bên cạnh đó, chúng tôi cũng sẽ đi tìm hiểu về khái niệm tộc Việt, những ghi chép về các khái niệm tương đương với tộc Việt trong lịch sử, và cũng từ đó phân tích lý do tại sao chúng tôi lại sử dụng khái niệm tộc Việt trong các nghiên cứu của mình, nhằm giúp bạn đọc có cái nhìn tổng quan về nguồn gốc tên gọi của cộng đồng này.

I. Sự hình thành tên Việt và nguồn gốc của cộng đồng tộc Việt:

1. Nguồn gốc tên Việt và sự hình thành ý thức dân tộc Việt:

Cộng đồng tộc Việt được hình thành trong vùng Dương Tử, đây cũng là nơi hình thành các nhà nước đầu tiên của cộng đồng tộc Việt và vùng Đông Á tại văn hoá Lương Chử, tại đây, cộng đồng dân cư có hai nguồn gốc từ bắc Đông Á và Dương Tử đã hợp nhất để hình thành tộc Việt [2], cùng với đó là sự hình thành tên Việt và ý thức dân tộc của cộng đồng tộc Việt. Để tìm hiểu về nguồn gốc và tên gọi Việt, chúng ta cần kết hợp các tài liệu khảo cổ của các văn hóa tộc Việt, tiền thân của tộc Việt và văn tự Trung Hoa qua các giai đoạn, để xác định nguồn gốc và tiến trình phát triển của chữ Việt. Các tài liệu khảo cổ sẽ có vai trò quyết định trong xác định tên gọi Việt, đó chính là tên gọi tự nhận của người Việt được khắc trên các di vật của các văn hóa, chúng tôi chỉ sử dụng văn tự Trung Hoa như một tài liệu đối chiếu để tìm hiểu về tiến trình phát triển của chữ Việt.

Theo các tài liệu khảo cổ, thì người Việt thời Hùng Vương không chỉ có chữ viết, mà có tới 2 hệ thống chữ viết khác nhau, tìm hiểu sâu hơn về nguồn gốc trong văn hóa Đông Á cổ, chúng tôi đã tìm thấy sự kế thừa liên tục của chữ viết của người Việt. Chữ viết của người Việt trong giai đoạn đầu là chữ viết hình vẽ, là dạng chữ viết chung của văn hóa Đông Á cổ, sau đó dần dần chuyển sang giai đoạn chữ viết hoàn chỉnh hơn dựa trên chữ tượng hình khoảng 3000 năm trước, và tiến tới chữ viết ký âm [3]. Vì vậy, trong giai đoạn văn hóa Đông Á cổ và đầu thời kỳ hình thành tộc Việt, thì tên gọi cũng được ghi lại dưới dạng chữ viết hình vẽ, sau đó mới dần dần có sự thay đổi qua tiến trình phát triển của chữ viết, tới thời văn hóa Đông Sơn, thì người Việt đã chuyển sang chữ ký âm nhưng vẫn sử dụng dạng chữ tượng hình cổ, chứ không bỏ hẳn, nên nhiều khả năng, cách viết cổ vẫn tiếp tục được người Việt sử dụng. [4]

Chữ Việt được sử dụng để chỉ tộc Việt và người Việt được ghi lại trong văn tự Trung Hoa bắt nguồn từ hình ảnh chiếc rìu, chữ “Việt” có thể tìm thấy tiến trình phát triển trong các dạng giáp cốt văn, kim văn, triện văn, khải thư của chữ Hán, từ chữ “Việt” ban đầu là chiếc rìu, dần dần chuyển sang hình ảnh thủ lĩnh cầm rìu, và từng bước phát triển trở thành chữ 越 như lịch sử Trung Hoa đã ghi chép lại.

Biểu tượng Việt trong văn tự Trung Hoa qua thời gian: 1-4: Chữ Việt (cái rìu) ở dạng giáp cốt văn, kim văn, triện văn, khải thư [5], 5-8: chữ Việt (có nghĩa là vượt qua, nước Việt) ở dạng kim văn (5-6), triện văn, khải thư. [6]

Các tài liệu khảo cổ sẽ cho chúng ta thấy được người Hoa Hạ đã dựa vào cách viết chữ Việt đầu tiên của các văn hóa tiền thân của tộc Việt, để tạo thành chữ Việt trong Giáp Cốt văn. Chữ Việt của người Việt dưới hình dạng chiếc rìu xuất hiện sớm nhất là từ Đại Khê (5000 – 3300 BC) trong vùng trung lưu Dương Tử và văn hóa Đại Vấn Khẩu (4100 – 2600 BC) trong vùng Sơn Đông, tại các văn hóa này đã tìm thấy hình ảnh những chiếc rìu lễ khí tương tự như trên Giáp Cốt văn sau đó tiếp tục được người Việt kế thừa trong thời văn hóa Lương Chử và văn hóa Thạch Gia Hà. Văn tự của người Hoa Hạ mới hình thành từ thời nhà Thương, nên các biểu tượng rìu của người Việt có trước, sớm hơn ít nhất là 1000 năm, từ chữ Việt hình chiếc rìu của người Việt, người Hoa Hạ tiếp nhận và chép lại vào xương và mai rùa.

Biểu tượng Việt (chiếc rìu) trong các văn hóa: 1. Đại Vấn Khẩu, 2. Đại Khê, 3. Lương Chử, 4. Văn hóa Thạch Gia Hà. [7]

Tới thời văn hóa Thạch Gia Hà, thì biểu tượng Việt phát triển trở thành hình ảnh thủ lĩnh cầm rìu, trên chiếc chum gốm của văn hóa Thạch Gia Hà đã được khắc hình ảnh thủ lĩnh đội mũ lông chim và cầm rìu, đây là chữ Việt hoàn thiện hơn so với chữ Việt theo hình tượng cái rìu, được người Việt tiếp tục kế thừa trong văn hóa Đông Sơn.

Hình ảnh thủ lĩnh cầm rìu trên chum gốm văn hóa Thạch Gia Hà. [8]

Hình ảnh thủ lĩnh cầm rìu biểu trưng cho tên gọi Việt trong văn hóa Thạch Gia Hà tiếp tục được người Việt kế thừa trong văn hóa Đông Sơn, với hình ảnh thủ lĩnh cầm rìu xuất hiện rất phổ biến trên các trống đồng Đông Sơn.

Hình ảnh thủ lĩnh cầm rìu và đội mũ lông chim tương tự như văn hóa Thạch Gia Hà xuất hiện rất phổ biến trên các trống đồng Đông Sơn. Hoa văn trên là ở trống đồng Ngọc Lũ. [9]

Vì là chữ ký âm, nên chữ Việt có thể phục nguyên theo phương pháp ngôn ngữ học, theo sự phục nguyên của William Baxter, thì: “Yuè 越 SV: Việt < MC *hjwot < OC *wjat [*wat]”, âm gốc của Việt là “wat“, có nguồn gốc từ ngôn ngữ của ngôn ngữ Nam Á, đặc biệt là Khmer và Bahnar. Trong ngôn ngữ Khmer, cổ và hiện đại, có một nhóm từ được xây dựng dựa trên gốc tiếng Khmer *wat theo nghĩa chung là “đi vòng quanh, vòng tròn” [Jenner & Pou 1980-81: 343-344]: cʰvat “Trong một vòng tròn”, *cəŋwat “Lãnh thổ được phân định”, kʰvat “Thuế, thuế” và kərvat “Trùm” [10], mặt nghĩa đáng chú ý nhất là *cəŋwat “Lãnh thổ được phân định”. Trong tiếng Môn cổ có từ “rwas” có nghĩa là “vũ khí” [Schuessler 2007], tương ứng với nguồn gốc từ hình ảnh chiếc rìu của văn hóa Lương Chử.

Vì vậy, có đủ cơ sở kết luận rằng tên gọi Việt là tên người Việt tự nhận, không phải do người Hán đặt cho người Việt, tên “Việt” có nghĩa đen là “tộc người sử dụng rìu lễ khí biểu trưng quyền lực”, nghĩa bóng là “vượt qua” như ngày nay chúng ta vẫn sử dụng [11]. Tiến trình phát triển của chữ Việt có thể khái quát như sau: rìu lễ khí sớm nhất là ở vùng Dương Tử tại văn hóa Cao Miếu, đại diện cho quyền lực của văn hóa Đông Á cổ, từ văn hóa Cao Miếu, rìu lễ khí lan ra khắp Đông Á, phiên bản chữ Việt đầu tiên là hoa văn biểu tượng chiếc rìu, xuất hiện sớm nhất ở văn hóa Đại Khê và sau đó là Đại Vấn Khẩu, tới thời điểm tộc Việt hình thành, nó tiếp tục được kế thừa trong các văn hóa Lương Chử và phát triển thành hình ảnh thủ lĩnh cầm rìu và đội mũ lông chim trong văn hóa Thạch Gia Hà, đây là biểu tượng Việt hoàn chỉnh nhất của người Việt, sau đó tiếp tục được kế thừa trong văn hóa Đông Sơn. Người Hoa Hạ cũng dựa trên tiến trình phát triển của tên gọi tự nhận của người Việt, để chép lại theo thứ tự: chiếc rìu, thủ lĩnh cầm rìu và dần dần hình thành chữ Việt 越 được chép trong nhiều sách sử của họ.

Tổng quan về các bước phát triển của tên gọi Việt, sự xuất hiện đầu tiên trong các văn hóa Đông Á cổ đại và văn hóa tộc Việt (A), chữ Việt phát triển tới biểu tượng thủ lĩnh cầm rìu của văn hóa Thạch Gia Hà (B) và kế thừa trong văn hóa Đông Sơn (C). Đối chiếu với tiến trình phát triển chữ Việt trong văn tự Hoa Hạ (D). (Dựa trên ý tưởng của tác giả Hoàng Nguyễn)

Trong văn hóa Lương Chử, văn hóa đầu tiên hình thành cộng đồng tộc Việt, các nhà khảo cổ đã tìm thấy một chiếc nồi gốm đen có khắc 4 ký hiệu, đây là các ký hiệu có ý nghĩa rất quan trọng để có thể biết thêm thông tin về sự hình thành của tộc Việt. Các ký hiệu được khắc trên nồi gốm Lương Chử các ký hiệu hậu duệ của văn hóa Đông Á cổ đại mà chúng tôi đã dẫn ở bài [4], được kế thừa trực tiếp từ các văn hóa Đông Á cổ đại, vì chữ của người Việt và chữ của người Hoa Hạ đều có nguồn gốc từ văn hóa Đông Á cổ, nên chữ viết có nhiều điểm tương đồng với các chữ viết của các triều đại Hoa Hạ, đặc biệt là biểu tượng chiếc rìu, cũng đã được tìm thấy rất nhiều trong Giáp Cốt văn, đại diện cho chữ Việt giai đoạn đầu từ văn hóa Lương Chử, sau đó được người Hoa Hạ chép lại.

Nhà nghiên cứu Trung Quốc, Đổng Sở Bình đã giải mã ý nghĩa các chữ này dựa trên sự so sánh về văn tự, tìm hiểu về bối cảnh lịch sử, nguồn gốc dân tộc của văn hóa Lương Chử, so sánh với các cách giải mã đã có trước đó của các học giả, ông đã giải mã các chữ này là “方钺会矢” – “Phương Việt hội thi”, có thể hiểu là “Liên minh quốc gia Việt” [12], các chữ này được viết và đọc theo thứ tự từ trái qua phải, theo như cách viết truyền thống của người Việt. Cách giải mã này đã giải thích khá vẹn toàn các ký hiệu trên bình gốm của văn hóa Lương Chử, có nhiều học giả không xem đây là chữ viết, chỉ đơn thuần là biểu tượng đại diện cho một ý niệm nào đó, nhưng cũng có nhiều nhà nghiên cứu cho rằng nó là chữ viết, và đã thử giải mã nó, trong đó bao gồm một số cách giải mã như sau: đầu tiên là cách giải mã “方钺会矢” của Đổng Sở Bình như chúng tôi đã dẫn, cách thứ hai là của Lý Học Cần: “巫戌五俞” [13], hay cách giải nghĩa của Vương Huy: “巫戌五俞” [14], cách giải thích của Lý Học Cần cho rằng biểu tượng chiếc rìu chỉ là chiếc rìu đơn thuần, nhưng thực tế, nó còn đại diện cho chữ Việt trong Giáp Cốt Văn, cách giải thích của Vương Huy lại sử dụng chữ 戌 (tuất) để chỉ biểu tượng chiếc rìu, trong khi thực tế biểu tượng chiếc rìu là đại diện cho chữ Việt như chúng tôi đã chứng minh ở trên, được thể hiện trong cả Giáp Cốt văn, nên cách giải thích này có thể bác bỏ. Chỉ duy nhất cách giải nghĩa của Đổng Sở Bình phù hợp với hình thái văn tự, thực tế lịch sử và nguồn gốc dân tộc của văn hóa Lương Chử.

Đây là tư liệu hoàn toàn phù hợp với các tài liệu khảo cổ cho thấy văn hóa Lương Chử đã có một tổ chức nhà nước phát triển, tư liệu này cũng cho thấy nơi đây cũng là nơi hình thành nên cộng đồng tộc Việt, với hình thức quốc gia được tổ chức dưới dạng liên minh nhà nước, với trung tâm là văn hóa Lương Chử, sau đó được chuyển về vùng trung lưu Dương Tử với văn hóa Thạch Gia Hà.

4 biểu tượng trên nồi gốm văn hóa Lương Chử được giải mã cho thấy ý thức Việt đã xuất hiện từ thời văn hóa Lương Chử. [12]

Hình ảnh thực tế chiếc bình gốm có khắc chữ của văn hóa Lương Chử. [Nguồn: CSSToday, dẫn]

Đây là tư liệu rất quan trọng để củng cố nhận định cộng đồng tộc Việt đã được hình thành trong văn hóa Lương Chử của chúng tôi, nó cũng đồng thời chứng minh về nhận thức trong tổ chức nhà nước của tộc Việt trong thời kỳ văn hóa Lương Chử, sau thời kỳ văn hóa Lương Chử, thì trung tâm tộc Việt được chuyển về vùng trung lưu Dương Tử với văn hóa Thạch Gia Hà, chính là nguồn gốc gần nhất của người Việt trong vùng miền Bắc Việt Nam.

Chiếc rìu có thể nói là biểu trưng cho ý thức dân tộc và quyền lực của người Việt, chiếc rìu ngọc sớm nhất của văn hóa Đông Á cổ đại xuất hiện tại văn hóa Cao Miếu (Gaomiao) trong vùng Hồ Nam, từ văn hóa này, rìu ngọc đã lan tỏa ra khắp vùng Đông Á, sau đó tới thời Lương Chử, thì chữ Việt với biểu tượng chiếc rìu bắt đầu được hình thành.

Rìu ngọc đầu tiên của Đông Á tìm thấy tại văn hóa Cao Miếu tại tỉnh Hồ Nam, vùng trung lưu Dương Tử. [15]

Tới thời kỳ văn hóa Đông Sơn, thì rìu của văn hóa này phát triển rất đa dạng về kiểu cách, cũng như về số lượng, rìu đồng các hình dạng là hiện vật quan trọng nhất của văn hóa Đông Sơn, chứng tỏ ý nghĩa quan trọng của rìu và tên gọi Việt đối với người Việt. Có thể nói rìu đồng là biểu trưng cho quyền lực, và cho cả ý thức dân tộc Việt.

Rìu đồng biểu thị quyền lực với cán tương tự như các văn hóa Đông Á và tộc Việt cổ đại. [Nguồn: Galarie Hioco]

Ngoài Việt Nam, thì các loại hình rìu cân xòe và rìu lưỡi hài của văn hóa Đông Sơn còn xuất hiện trong địa bàn có cư dân tộc Việt sinh sống, các vùng ảnh hưởng khác của văn hóa Đông Sơn như Đông Nam Á lục địa và hải đảo hầu như không thấy các loại hình rìu đồng này, chứng tỏ chúng có vai trò rất quan trọng trong ý thức văn hóa và dân tộc của cộng đồng tộc Việt.

Rìu cân xòe tại các vùng tộc Việt: Việt Nam, Chiết Giang, Quảng Tây, Quảng Đông, Hồ Bắc, Hồ Nam. [Nguồn: 1. Art Gallery of New South Wales, dẫn; 2. Bảo tàng thành phố Ninh Ba, Chiết Giang, dẫn; 3. Bảo tàng Khu tự trị dân tộc Choang, Quảng Tây, dẫn; 4. Bảo tàng Nanshan, dẫn; 5. Bảo tàng tỉnh Hồ Bắc, dẫn; 6. Bảo tàng tỉnh Hồ Nam, China Institute, dẫn.]

Rìu lưỡi hài tại các vùng: Việt Nam, Hồ Nam, Quảng Đông. [Nguồn: 1. Martin Doustar, 2014, Art of Bronze Age in Southeast Asia; 2. Bảo tàng tỉnh Hồ Nam, dẫn; 3. Nguồn: Bảo tàng Nanshan, Thâm Quyến, dẫn]

II. Các thành phần dân cư của cộng đồng tộc Việt:

Cộng đồng tộc Việt thời điểm hình thành, là một tập hợp của các cư dân thuộc các ngữ hệ và có nguồn gốc khác nhau, trong đó thành phần chính và chủ yếu là cư dân Nam Á vùng Dương Tử và cư dân Tai-Kadai, Nam Đảo vùng bắc Đông Á di cư xuống. Trong suốt thời gian tồn tại và phát triển, thì cộng đồng này thường có sự hòa hợp và thống nhất cả về ngôn ngữ, văn hoá, di truyền, nhưng vẫn thể hiện sự tôn trọng những đặc trưng riêng của từng nhóm dân cư.

Theo nghiên cứu của Randy J. LaPolla (2010) [16], thì khái niệm Việt bao gồm các hệ ngữ: Nam Á, Tai-Kadai, Hmong-Mien và có thể là cả ngữ hệ Nam Đảo. Có một chi tiết cần làm rõ trong nghiên cứu này, LaPolla cho rằng ngữ hệ Nam Á có nguồn gốc từ Sơn Đông, nhưng chúng tôi đã chứng minh ngữ hệ Nam Á là bản địa sông Dương Tử [17], người Tai-Kadai và Nam Đảo mới các ngữ hệ có nguồn gốc từ vùng Sơn Đông di cư xuống vùng Dương Tử theo các nghiên cứu di truyền [2].

Theo nghiên cứu của Lee (2012) [18], thì khái niệm Việt được ghi chép lại trong cổ sử Trung Hoa bao gồm các hệ ngữ: Nam Á, Tai-Kadai và có thể là cả hệ ngữ Hmong-Mien.

Nghiên cứu của Norman và Tsu-lin [19] cho thấy ngữ hệ Nam Á là thành phần quan trọng của cộng đồng Việt phía Nam sông Dương Tử, trong đó đáng chú ý nhất là từ “Giang” trong tên sông Trường Giang (Changjiang) được người Hán mượn từ ngữ hệ Nam Á (trong đó có tiếng Việt), chứng minh sự hiện diện của người Việt trong vùng Dương Tử và những giao tiếp của ngữ hệ Nam Á với tiếng Hán.

Nghiên cứu của Delancey [20] cho thấy cộng đồng Việt bao gồm các ngữ hệ: Nam Á, Tai-Kadai và Hmong-Mien. Nghiên cứu này cũng cho thấy những ảnh hưởng khá mạnh từ các ngôn ngữ của cộng đồng Việt tới tiếng Hán.

Dựa trên các phân tích về di truyền, chúng tôi cho rằng người Hmong-Mien có nguồn gốc khá phức tạp, với hai thành phần chính là từ vùng bắc Đông Á di cư xuống (với truyền thuyết Si Vưu về nguồn gốc của người Hmong-Mien), và có cốt lõi ngôn ngữ, có thể cả di truyền là từ của cư dân bản địa trong vùng trung lưu Dương Tử, ngữ hệ Hmong-Mien được hình thành trong vùng Dương Tử [2]. Các nghiên cứu di truyền cũng cho thấy sự khác biệt về di truyền giữa các dân tộc thuộc hệ ngữ Hmong-Mien, các dân tộc thuộc nhánh Dao có di truyền gần với người Việt và các dân tộc thuộc cộng đồng tộc Việt, nhưng người Hmong-Miêu lại có sự khác biệt lớn về di truyền. Từ những cơ sở nghiên cứu di truyền và ngôn ngữ này, chúng tôi cho rằng trong ngữ hệ Hmong-Mien, thì có lẽ chỉ nhóm Dao là thuộc cộng đồng tộc Việt, còn nhóm Hmong-Miêu không thuộc cộng đồng này, có nguồn gốc khác so với nhóm Dao.

Thêm thông tin về việc người Dao cũng xem vua Hùng như Tổ của mình, cho thấy, người Dao nhiều khả năng cũng là một thành phần của cộng đồng tộc Việt như chúng tôi đã phân tích ở trên. Người Dao tại Trung Quốc hiện tại vẫn sử dụng trống đồng, là hiện vật đặc trưng của cộng đồng tộc Việt trong thời kỳ văn hóa Đông Sơn.

Gặp được vua Tổ tốt lòng
Hướng dẫn người Dao biết làm đồng làm nương
Hai tay con lạy vua Tổ Hùng Vương
Cho con bông lúa chín đỏ đầy nương
Ngô bắp đầy vườn, gia súc đầy sân
Người người sinh sôi, bản làng đông vui
Kính lạy vua Tổ tối linh!
” [21]

Người Dao Bunu tại Quảng Tây hiện vẫn sử dụng trống đồng, địa bàn sinh sống hiện tại và các nét văn hóa dân tộc có thể cho thấy họ cũng trong cộng đồng tộc Việt. [Nguồn: China Cultural Centre in Wellington, dẫn]

Trong thời kỳ đầu hình thành, thì cộng đồng tộc Việt có thể bao gồm 3 hệ ngữ chính: Nam Á, Nam Đảo, Tai-Kadai, và có thể là nhóm Dao của hệ ngữ Hmong-Mien, nhưng người Nam Đảo sinh sống trong cộng đồng này trong thời gian khá ngắn, sau đó họ tiếp tục di cư sang vùng Đài Loan vào khoảng 5000 năm trước và xuống Đông Nam Á [22][23], nên sau thời điểm này, cộng đồng tộc Việt chỉ còn hai hệ ngữ chính là Nam Á và Tai-Kadai, và có thể là nhóm Dao như chúng tôi đã phân tích ở trên.

III. Các ghi chép về cộng đồng tộc Việt trong lịch sử:

Ở phần này, chúng tôi sẽ đi tìm hiểu về những ghi chép về cộng đồng tộc Việt trong lịch sử Trung Hoa, phân tích các tài liệu, để từ đó có thể thấy được các khái niệm tương đương với tộc Việt, và sự thống nhất của cộng đồng tộc Việt, là cơ sở để chúng tôi sử dụng khái niệm tộc Việt trong các nghiên cứu của mình.

1. Tộc Việt và các khái niệm tương đương với nó trong các ghi chép lịch sử:

Trong phần I, thông qua các tài liệu khảo cổ và ngôn ngữ học, chúng ta thấy được người Việt tự nhận mình là Việt, sau đó người Hoa Hạ đã ghi chép lại dựa trên tên tự nhận của người Việt, dần dần hình thành chữ 越, và từ đó, cộng đồng tộc Việt được ghi chép khá nhiều trong các tài liệu lịch sử Trung Hoa. Trong tài liệu lịch sử Trung Hoa, ba khái niệm được sử dụng để chỉ người Việt nhiều nhất, đó là Dương Việt, Lạc Việt và Bách Việt, chúng tôi sẽ tổng hợp và phân tích các tài liệu lịch sử, để có thể thấy được nguồn gốc và phần nào đó là sự thống nhất của cộng đồng dưới những cái tên này.

Về vấn đề tham khảo và nghiên cứu nguồn gốc từ cổ sử Trung Hoa, có một số ý kiến cho rằng tên Việt do người Hoa Hạ đặt cho người Việt, vấn đề này đã được chúng tôi chứng minh và phân tích ở trên, tên Việt là do người Việt tự nhận, người Hoa Hạ chỉ chép lại tên Việt dưới cái tên tự nhận của người Việt, vì vậy nên cách tiếp cận này là không có cơ sở. Hay cũng có quan điểm cho rằng các tài liệu lịch sử Trung Hoa là tài liệu của kẻ thù, nên không đủ cơ sở tin cậy, vì họ ghi chép không trung thực về người Việt, nhưng các tài liệu cổ sử Trung Hoa cũng được công nhận và sử dụng rất rộng rãi bởi các học giả và nhà nghiên cứu quốc tế, mặc dù sẽ có một số chi tiết không chính xác, thậm chí có thể bóp méo sự thật lịch sử, nhưng những điểm chưa chính xác, sai lệch không thể phủ nhận giá trị tham khảo của toàn bộ tác phẩm. Cách ghi chép lịch sử của người Hoa Hạ về cơ bản khá khoa học và có phương pháp bài bản, các sách sau tham khảo và chép từ các sách trước, mặc dù trong ghi chép của họ có nhiều dòng văn bôi nhọ người Việt, nhưng đây vẫn là cơ sở quan trọng để chúng ta biết thêm về nguồn gốc của tộc Việt, trong bối cảnh sự thiếu thốn tài liệu lịch sử của người Việt trong thời Hùng Vương và thời Bắc thuộc, do sự đốt phá trong các thời kỳ cai trị, xâm lược của người Hoa Hạ. Tất nhiên, khi tham khảo, chúng ta cần có sự chọn lọc, đối chiếu với các tài liệu di truyền, khảo cổ có liên quan để kiểm tra tính xác thực của các ghi chép trong các tài liệu lịch sử.

Lạc Việt:

Đầu tiên là khái niệm Lạc Việt, tên gọi Lạc Việt là một trong những cái tên quan trọng và được chép lại nhiều nhất trong cổ sử Trung Hoa, nó thường được xem như là từ để chỉ người Việt tại miền Bắc Việt Nam, nhưng qua các tài liệu lịch sử, thì nhiều khả năng, tên Lạc Việt là tên gọi chung của cả cộng đồng tộc Việt, chứ không chỉ mình người Việt tại miền Bắc Việt Nam.

Sách Lã Thị Xuân Thu chép: “和之美者:阳朴之姜,招摇之桂,越骆之菌 hòa chi mĩ giả: Dương phác chi khương, Chiêu dao chi quế, Việt Lạc chi khuẩn ” Cao Dụ 高诱 chú “越骆,国名。菌,竹笋”= “Việt Lạc: quốc danh. Khuẩn: măng trúc”. [24]

Việt Lạc trong cách gọi trên được xem là quốc danh, Việt Lạc cũng là Lạc Việt, do cú pháp viết ngược mà thành, từ đoạn trích trên, có thể thấy tác giả thấy người Việt khắp nơi đều tự nhận mình là Việt Lạc, nên cho rằng đây là quốc danh.

Sách Dư địa chí của Cố Dã Vương 顾野王 (519 – 581) đã viết như sau: “ 交趾,周时为骆越,秦时曰西瓯。”- “Giao Chỉ, Chu thời vi Lạc Việt, Tần thời viết Tây Âu” [25]

Giao Chỉ ở đây là Giao Chỉ bộ, được sử dụng để chỉ một vùng đất rộng lớn, trong thời Chu thì khái niệm Giao Chỉ tương ứng với Lạc Việt, điều này có nghĩa đây có thể là danh xưng của cả cộng đồng tộc Việt trong vùng Giao Chỉ. Tới thời Tần, thì khái niệm bắt đầu chuyển sang Tây Âu, tức là Tây Âu Lạc được chép trong sách Sử Ký của Tư Mã Thiên.

Hồ Bắc, phía Bắc hồ Động Đình, chính là cội nguồn của người Việt, cũng là nơi sinh sống của người Lạc Việt.

Hậu Hán Thư chép: “十一年將兵至中盧屯駱越是時公孫述將田戎任滿與征南大將軍岑彭相拒於荆門彭等戰數不利越人謀畔從蜀宫兵少力不能制㑹屬縣送委輸車數百乗至宫夜使鋸斷城門限令車聲回轉出入至旦越人候伺者聞車聲不絶而門限斷相告以漢兵大至其渠帥乃奉牛酒以勞軍營宫陳兵大㑹擊牛釃酒饗賜慰納之越人由是遂” –“Năm thứ 11 (đời Hán Quang Võ, tức năm 35, trước khởi nghĩa Hai Bà Trưng 5 năm) Tang Cung đem binh đến huyện Trung Lư (sau là huyện Nam Chương thủ phủ là Tương-Phàn Thị tức Tương Dương và Phàn Thành), đóng đồn (trên đất cư trú của người) Lạc Việt. Lúc đó Công Tôn Thuật (thế lực cát cứ đang chiếm đất Thục) sai tướng Điền Nhung, Nhiệm Mãn ra cự địch với Chinh nam đại tướng quân Sầm Bành ở Kinh môn, Bành nhiều lần đánh mà không thắng (sau Bành bị quân thích khách của Thục giết!), người Việt do đó muốn làm phản theo Thục, Cung binh ít, không đủ lực lượng khống chế.” [25]

Sách Thông Điển của Đỗ Hựu đời Đường, chương Cổ Nam Việt cũng có nhắc tới Tây Âu là đất của người Lạc Việt. “古西甌、駱越之地” – “Cổ Tây Âu, Lạc Việt chi địa”, tạm dịch: “Cổ Tây Âu là đất của Lạc Việt”. Một đoạn trích khác cũng có ý nghĩa tương tự: “西甌即駱越也” “Tây Âu cũng là Lạc Việt”.

Các tài liệu khác cho chúng ta thấy Tây Âu là một khái niệm nhỏ hơn so với phạm vi của khái niệm Lạc Việt, hay Tây Âu là một nhánh của người Lạc Việt.

Cựu Đường thư, Địa lý chí chép: “貴州鬱平漢廣鬱縣地,屬鬱林郡。古西甌、駱越所居。” – “Huyện Uất Bình của châu Quý là huyện Quảng Uất thuộc quận Uất Lâm thời nhà Hán. Là chỗ mà người Tây Âu, Lạc Việt ở.” [Bản dịch của Tích Dã]

Phương ngôn (Hán – Dương Hùng soạn, Đông Tấn – Quách Phác chú): “允、訦、恂、展、諒、穆,信也。齊魯之間曰允,燕代東齊曰訦,宋衞汝潁之間曰恂,荊吳淮汭之間曰展。西甌毒屋黃石野之間曰穆。西甌,駱越別種也,音嘔。” – “Các từ doãn, kham, tuân, triển, lượng, mục là nói về ‘tín’. Vùng nước Tề-Lỗ gọi là ‘doãn’; vùng nước Yên-Đại, Đông Tề gọi là ‘kham’; vùng nước Tống-Vệ, Nhữ-Dĩnh gọi là ‘tuân’; vùng nước Kinh-Ngô, Hoài-Nhuế gọi là ‘triển’; vùng Tây Âu, Độc Thất, Hoàng Thạch Dã gọi là ‘mục’. Tây Âu là một chủng khác của người Lạc Việt, đọc là ‘âu’.” [Bản dịch của Tích Dã]

Huyện Mậu Danh, vùng Quảng Đông cũng là nơi sinh sống của người Tây Âu và người Lạc Việt.

Cựu đường thư – Địa lí chí chép: “潘州茂名州所治。古西甌、駱越地,秦屬桂林郡,漢為合浦郡之地。” – “Huyện Mậu Danh của châu Phan là sở trị của châu. Là đất của người Tây Âu, Lạc Việt thời xưa. Thời Tần thuộc quận Quế Lâm, thời nhà Hán là đất của quận Hợp Phố.” [Bản dịch của Tích Dã]

Như vậy, thông qua sự so sánh, đối chiếu và tổng hợp các tài liệu lịch sử, có thể thấy Lạc Việt là một tên gọi chung của cộng đồng tộc Việt, bên cạnh tên gọi này, cộng đồng tộc Việt còn được ghi chép dưới hai cái tên là Dương Việt và Bách Việt.

Dương Việt:

Tiếp theo là tên Dương Việt, tên gọi Dương Việt xuất hiện từ rất sớm, được chép lại lần đầu tiên trong Chiến Quốc sách, nó cũng thể hiện khá rõ ràng sự thống nhất của cộng đồng tộc Việt.

Chiến Quốc sách viết về Ngô Khởi (440TCN-381TCN):  “南攻楊越,北並陳、蔡” –  “Nam đánh Dương Việt, bắc thôn tính Trần,  Sái”. [26]

Phía Nam đất Sở thời điểm này vẫn là đất của cộng đồng tộc Việt, nên Chiến Quốc sách đã chép “Nam đánh Dương Việt”, tức là vùng đất của người Việt ở phía Nam, đây là một tên gọi chỉ chung cộng đồng tộc Việt, tương tự như khái niệm Lạc Việt.

Sử Ký của Tư Mã Thiên viết: “秦時已并天下,略定楊越,置桂林、南海、象郡” – “Thời Tần thôn tính thiên hạ, lược định Dương Việt đặt làm các quận Quế Lâm, Nam Hải, Tượng quận.” [26]

Phần “Tự tự” của Thái Sử Công trong Sử Ký viết như sau: “漢既平中國,而佗能集楊越以保南藩,納貢職。作南越列傳第五十三” – “Nhà Hán đã bình được Trung quốc, mà Triệu Đà biết chiêu tập được bọn Dương Việt để bảo vệ bờ cõi phía Nam, chịu nạp cống lễ. Nên ta viết thành quyển thứ 53 “Nam Việt Liệt Truyện”. [26]

Cả hai đoạn trích được chép trong Sử Ký của Tư Mã Thiên đều cho thấy Dương Việt được sử dụng để chỉ chung cộng đồng tộc Việt, vào thời nhà Tần, thì đất đai tộc Việt chỉ còn bao gồm vùng Lưỡng Quảng, Việt Nam và đảo Hải Nam, vùng đất cũ này tương ứng với khái niệm Dương Việt và Tây Âu.

Trong phần Hóa thực liệt truyện, Tư Mã Thiên còn viết: “九疑、蒼梧以南至儋耳者,與江南大同俗,而楊越多焉。- ”Từ Cửu Nghi, Thương Ngô về phía nam tới Đam Nhĩ, phong tục đại để giống vùng Giang Nam, mà đa số là dân “Lang Việt”. [26]

Theo tư liệu phục nguyên của Trịnh Trương Thượng Phương và Phan Ngộ Vân cho các chữ dương 陽và 楊, thì các chữ này là giống nhau và trùng chính xác với âm “lang”. Có tác giả như Vương Lực thì còn phục nguyên có giới âm -i- tức đọc gần như “lương”. Như vậy tên nước Dương Việt 楊越 trong thư tịch cổ của Trung Quốc cũng đọc là Lang Việt. Vì vậy, từ Giang Nam về phía Nam, có phong tục giống nhau, đều cùng là dân Lang Việt hay Dương Việt. [26]

Trong sách Phương Ngôn của Dương Hùng đời Tây Hán cũng có hai lần đề cập tên Dương Việt,  nhưng dùng chữ dương bộ thủ  揚,  điều này cho thấy đây là tên phiên âm, chỉ lấy âm chứ không lấy nghĩa, trích một ví dụ: 癡,騃也。揚越之郊凡人相侮以為無知謂之眲。眲,耳目不相信也。或謂之斫.” – “si, ngãi dã, Dương Việt chi Giao phàm nhân tương vũ dĩ vi vô tri vị chi nạch, nạch: nhĩ mục bất tương tín dã hoặc vị chi chước”– “Si là lẩn thẩn, người Dương Việt ở đất Giao gọi những kẻ lơ ngơ chả biết gì là “nạch”, ý là tai mắt chả biết nhìn nhận chi, hoặc còn gọi là “chước”.” [26]

Trong đoạn trích này: “người Dương Việt ở đất Giao” cho chúng ta thấy đất Giao của người Việt, Giao ở đây tương ứng với Giao Chỉ bộ hoặc lớn hơn, là đất của người Dương Việt, người Việt có thể gọi tên vùng đất sinh sống của mình là một từ liên quan tới chữ Giao, theo nguồn gốc ngôn ngữ, thì từ Giao có nguồn gốc từ tiếng Nam Á, được người Hoa Hạ chép lại, có sự thay đổi về không gian và thời gian với các từ ghép cùng với nó, như Nam Giao, Giao Chỉ, Giao Châu. [27]

Như vậy, thì khái niệm Dương Việt cũng được sử dụng để chỉ chung cộng đồng tộc Việt, một cộng đồng dân cư thống nhất, có sự gần gũi về văn hóa, và cũng thống nhất dưới một quốc gia chung, nên trong tài liệu lịch sử Trung Hoa, họ thường nhắc tới cộng đồng này như một khối, chứ ít đề cập riêng lẻ khi nhắc tới khái niệm Dương Việt.

Bách Việt:

Tới thời nhà Tần, thì khái niệm Bách Việt bắt đầu xuất hiện, chữ “Bách” trong Bách Việt đã gây không ít hiểu nhầm trong nhận định về cộng đồng này, nó xuất hiện lần đầu tiên trong sách Lã Thị Xuân Thu, sau đó được sử dụng thường xuyên trong sách Sử Ký của Tư Mã Thiên, từ đó, nó đã gắn chặt với cộng đồng tộc Việt, vượt qua những ảnh hưởng về tính thống nhất của cộng đồng tộc Việt được thể hiện qua các khái niệm Lạc Việt và Dương Việt. Tuy nhiên, qua khảo cứu một số tài liệu lịch sử về khái niệm Bách Việt, chúng ta cũng sẽ thấy được sự liên hệ, thống nhất về mặt văn hóa, cũng có thể là một quốc gia của cộng đồng tộc Việt.

Bách Việt được chép lần đầu tiên trong sách Lã Thị Xuân Thu do Lã Bất Vy chủ biên: “揚、漢之南,百越之際” – “Dương Hán chi nam, Bách Việt chi tế” , nghĩa là “phía nam đất Hán là đất Bách Việt.”. Đây là lần đầu tiên khái niệm này xuất hiện, có lẽ Lã Bất Vy hiểu rất rõ ý nghĩa của từ “Bách” khi ghép cùng với tên Bách Việt, chứ không phải là ngẫu nhiên sử dụng nó trong tác phẩm của mình. Sau đó trong sách Sử Ký, Tư Mã Thiên đã nhắc khá nhiều tới Bách Việt, các tài liệu lịch sử sau này của Trung Quốc đều chép dưới khái niệm Bách Việt.

Sách Hán thư, Địa lý chí chép: “粵地牽牛、婺女之分壄也。今之蒼梧、鬱林、合浦、交阯、九真、南海、日南皆粵分也。其君禹後帝少康之庶子云封於會稽臣瓚曰「自交阯至會稽七八千里百越雜處各有種姓不得盡云少康之後也。” – “Đất Việt ở phân dã của chòm sao Khiên Ngưu, Vụ Nữ. Các quận Thương Ngô, Uất Lâm, Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu Chân, Nam Hải, Nhật Nam ngày nay đều là phân dã của đất Việt. Có quân trưởng của đất ấy là dòng dõi của vua Vũ, đấy là con thứ của vua Thiếu Khang được phong ở núi Cối Kê, Thần Toản nói: “Từ quận Giao Chỉ đến quận Cối Kê dài bảy, tám ngàn dặm có các nhóm người Bách Việt ở lẫn, đều có nhánh họ, không nên nói đều là dòng dõi của vua Thiếu Khang.” [Bản dịch của Tích Dã]

Đoạn trích này cho chúng ta thấy từ Giao Chỉ tới Cối Kê là nơi sinh sống của người Bách Việt, các quận Thương Ngô, Uất Lâm, Hợp Phố, Giao Chỉ, Cửu Chân, Nam Hải, Nhật Nam là đất Việt xưa, tuy nhiên địa bàn sinh sống của người Việt còn xa hơn thế, tới hồ Động Đình, vùng Vân Nam, Quý Châu và cả vùng Chiết Giang, Phúc Kiến, tương ứng với “từ quận Giao Chỉ đến quận Cối Kê”. Việc tác giả sách Hán Thư cho rằng người Việt có quân trưởng là dòng dõi của vua Vũ là không phù hợp, dòng dõi của vua Vũ chỉ tồn tại ở nước Việt, có hậu duệ là Câu Tiễn sau này.

Trong phần chú của sách Hán thư, Sư Cổ cho rằng: “師古曰「越之為號其來尚矣少康封庶子以主禹祠君於越地耳。故此志云其君禹後豈謂百越之人皆禹苗裔瓚說非也。」” – “Sư Cổ nói: “Vua nước Việt xưng hiệu đã từ lâu rồi, vua Thiếu Khang phong con thứ để lo việc thờ cúng vua Vũ, làm vua ở đất Việt vậy. Cho nên phần chí này nói quân trưởng của đất này là dòng dõi của vua Vũ, há phải là nói người Bách Việt đều là dòng dõi của vua Vũ đâu? Toản nói sai vậy.”. [Bản dịch của Tích Dã]

Như vậy sử gia Trung Quốc cũng phủ nhận quan điểm cho rằng Bách Việt là dòng dõi của vua Vũ, các tài liệu khảo cổ, lịch sử và văn hóa cũng phủ nhận quan điểm được thể hiện trong sách Hán thư, chỉ có dòng dõi Thiếu Khang, tức là tầng lớp tinh hoa của nước Việt thời Chiến Quốc mới là hậu duệ của vua Vũ nhà Hạ. Người Bách Việt phát triển hoàn toàn độc lập và không có quan hệ huyết thống gì với nhà Hạ ở phía Bắc sông Dương Tử.

Sách Thông Điển của Đỗ Hữu 杜佑 thời Đường (801), phần Châu quận chép: “自嶺而南,當唐、虞、三代為蠻夷之國,是百越之地” – “Từ dải núi Ngũ Lĩnh về phía nam, vào thời Đường – Ngu, Tam đại là nước của người Man Di, là đất của người Bách Việt .”. Sách này chú thêm: “或曰自交趾至於會稽七八千里,百越雜處,各有種姓.” – “Từ Giao Chỉ đến Cối Kê, bảy tám ngàn dặm, người Bách Việt xuất hiện khắp mọi nơi, mỗi nơi đều có một chủng tính.”

Qua đoạn trích từ sách Thông Điển, chúng ta nhận diện được hai thông tin quan trọng: thứ nhất là ở vùng phía Nam Dương Tử, từ Cối Kê tới Giao Chỉ, là nơi sinh sống của người Bách Việt, có nghĩa miền Bắc Việt Nam cũng trực tiếp thuộc cộng đồng này. Thứ hai, là người Bách Việt có một quốc gia chung, ngang với thời Đường – Ngu, tức khoảng hơn 4000 năm trước, vào trước thời điểm 4000 năm, thì tộc Việt vẫn sinh sống chủ yếu trong vùng Dương Tử, điều này cũng có nghĩa quốc gia của người Việt phải tương ứng với không gian từ vùng Dương Tử trở về Nam, chứ không chỉ từ Ngũ Lĩnh.

Trong sách Sử Ký của Tư Mã Thiên, phần Trần Thiệp thế gia, khi nói về nước Tần có chép: “Phía nam lấy đất Bách Việt, lập thành Quế Lâm, Tượng Quân. Vua của Bách Việt cúi đầu, buộc cổ nộp tính mạng cho quan coi ngục.” [28]

Về câu “buộc cổ nộp tính mạng cho quan coi ngục” thì trong sách sử của người Hoa Hạ, họ thường hạ thấp, bôi xấu kẻ thù, dù cho là thắng hay thua, để nâng cao vị thế của đất nước mình. Trong cuộc chiến chống Tần do An Dương Vương lãnh đạo sau khi giành ngôi của vua Hùng, thì An Dương Vương vẫn còn sống, đã di cư về miền Bắc Việt Nam và lập ra nước Âu Lạc, nên Tư Mã Thiên chép về việc “vua Bách Việt cúi đầu, buộc cổ nộp tính mạng cho quan coi ngục” là không có cơ sở. Ở đây, các chi tiết quan trọng hơn mà chúng tôi muốn tập trung tới, đó là “phía nam lấy đất Bách Việt”“Vua của Bách Việt”, rõ ràng qua các chi tiết này, Tư Mã Thiên đã xác nhận Bách Việt là một khối, có vua lãnh đạo, và trong đoạn trích này, ông cũng chỉ nói “lấy đất Bách Việt” có nghĩa chưa chiếm được hoàn toàn đất đai của người Việt.

Sử Ký của Tư Mã Thiên, trong phần Tôn Tử, Ngô Khởi liệt truyện có chép: “Vua Sở là Điệu Vương vốn nghe tiếng Ngô Khởi hiền, nên Khởi đến Sở liền được làm tể tướng. Khởi nêu rõ pháp luật, lệnh ra thì thi hành bỏ những chức quan không cần thiết, bỏ không chu cấp cho những người họ nhà vua đã xa nhiều đời, để hậu đãi nuôi dưỡng những người chiến đấu, cốt làm cho quân mạnh, phá tan những bọn chỉ đi nói suông về việc “hợp tung” hay “liên hoành”. Kết quả phía nam bình định Bách Việt, phía bắc lấy đất Trần, đất Thái, cự tuyệt Tam Tấn, phía tây đánh Tần.” [28]

Chi tiết trên cho chúng ta thấy người Hán cũng xem Bách Việt như một cộng đồng, khái niệm Bách Việt ở đây được đặt ngang với Trần, Thái, Tần, là các quốc gia có chủ quyền.

Kết luận:

Thông qua các tài liệu lịch sử, chúng ta được biết rằng cộng đồng tộc Việt được ghi chép lại dưới 3 cái tên: Lạc Việt, Dương Việt và Bách Việt, trong đó hai cái tên đầu có từ sớm, đều thể hiện sự thống nhất của cộng đồng tộc Việt, nhưng cái tên thứ 3, đã có những ảnh hưởng rất sâu và rộng trong nhận định về cộng đồng này. Các tài liệu lịch sử về các khái niệm này cũng cho thấy, cộng đồng tộc Việt có sự thống nhất trong một cộng đồng chung, một quốc gia chung. Dựa trên nhiều nghiên cứu về di truyền, nhân chủng, khảo cổ, lịch sử, văn hóa, ngôn ngữ chứng minh sự thống nhất của cộng đồng tộc Việt [1], chúng tôi đã đề xuất và sử dụng khái niệm “tộc Việt” trong các bài nghiên cứu của mình, đây là một khái niệm thể hiện được chính xác nhất nguồn gốc chung và sự thống nhất, liên hệ với nhau rất chặt chẽ, nó cũng bao quát hơn, toàn diện hơn so với các khái niệm Dương Việt, Lạc Việt (bởi những biến đổi về không gian lịch sử qua thời gian của các khái niệm này).

3. Về nguồn gốc hai chữ Việt 越 và 粵:

Trong hầu hết các ghi chép trong cổ sử Trung Hoa được chúng tôi dẫn ở trên, thì hầu như chỉ có chữ 越 được sử dụng, các ghi chép cũng đều thể hiện chữ 越 được sử dụng để chỉ chung cộng đồng tộc Việt, vậy nên, khái niệm Việt dưới 越 Việt có vai trò quan trọng hơn trong lịch sử của người Việt, không được sử dụng để chỉ riêng biệt một nhóm dân nào trong địa bàn của tộc Việt. Chữ Việt 越 cũng có nguồn gốc từ sự phát triển dựa trên cách tự nhận của người Việt, thể hiện tiến trình hình thành rất rõ trong văn tự Trung Hoa như chúng tôi đã dẫn ở phần trên.

Trong một số tài liệu, thì người Hoa Hạ cũng sử dụng cả chữ Việt bộ Mễ 粵, nhưng theo tài liệu cổ, thì hai chữ Việt được sử dụng thông nhau (越粵互通 – Việt 越 Việt 粵 hỗ thông), sách Bách Việt tiên hiền chí do Âu Đại Nhậm, một sử quan gốc Bách Việt đời nhà Minh biên soạn, cũng chép rằng hai chữ Việt 越 và 粵 là một [29], có thể sử dụng thông nhau, đều là chỉ chung cộng đồng tộc Việt. Sự phân biệt trong sử dụng hai chữ Việt này bắt nguồn từ vấn đề người Hoa Hạ đã sử dụng hai chữ Việt này để chỉ riêng từng nhóm Hán tại các vùng, nguyên nhân được cho là do tránh sự nhầm lẫn, nhưng chúng tôi cho rằng họ có dụng ý sâu xa hơn thế, có thể nhằm phân tách sự thống nhất về nguồn gốc của người Việt tại Việt Nam, với người Hán tại các vùng phía nam sông Dương Tử, các vùng tác động chủ yếu là vùng Chiết Giang và Lưỡng Quảng.

Tỉnh Chiết Giang 浙江 trước đây được gọi là tỉnh Việt 越, tới thời Minh – Thanh, thì tên gọi của vùng hạ lưu Dương Tử được thay đổi thành Chiết Giang, nhưng tỉnh Chiết Giang vẫn được xem là tỉnh Việt cho tới ít nhất thời nhà Thanh. Vùng đất Thiệu Hưng của Chiết Giang được gọi là 越州 Việt Châu. Kịch của vùng Chiết Giang được gọi là Việt kịch 越剧. Vùng đất Chiết Giang vào khoảng 3000 năm trước, nằm trong sự kiểm soát của hoàng tộc gốc Hoa Hạ có dòng dõi vua Vũ nhà Hạ, được phân phong cho Vô Dư, tổ tiên của Câu Tiễn sau khi nhà Thương chiếm được của tộc Việt vào khoảng 3300 năm trước, nhưng xét về thành phần dân cư, thì đây là nơi sinh sống của cư dân tộc Việt, có sự tương đồng về nguồn gốc, văn hóa với tộc Việt [30], Vô Dư khi di cư xuống đây đã thuận theo tên tự nhận của người Việt, đặt tên nước là Ư Việt 於越 nhằm hòa hợp với người Việt bản địa, nên việc cư dân Hán tại đây vẫn nhận mình là Việt, cho thấy ý thức về nguồn gốc Việt được duy trì rất mạnh.

Vùng Quảng Đông, Quảng Tây trong thời gian đầu được ghi chép trong cổ sử Trung Hoa dưới cái tên Nam Việt 南越, các tài liệu đều ghi chép Nam Việt và vùng Quảng Đông, Quảng Tây trước thời Tùy – Đường là chữ Việt này, nhưng tới thời thời Tùy – Đường, thì chữ Việt 粤 đã được sử dụng để chỉ vùng Quảng Đông. Lưỡng Quảng ngày nay còn được gọi là Lưỡng Việt 两粤, nhưng chữ Việt 粤 sử dụng trong tên gọi hai vùng này đã phân tách giữa người Việt tại Việt Nam với người Hán có gốc Việt tại Lưỡng Quảng và vùng Chiết Giang, gây ra hiểu nhầm về nguồn gốc khác biệt của người Việt các vùng.

Sách Dư Địa Chí đã sử dụng chữ 粤 để chỉ cả Bách Việt 百粵 và sử dụng trong tên gọi Việt Nam 粤南. Sách này do Nguyễn Trãi viết và các nhà nho cùng thời với ông góp phần biên tập, nhưng về câu chữ, thì đây lại là một vấn đề gây ra tranh cãi, bởi thời Nguyễn thì chúng ta mới được tiếp cận với tác phẩm này, nên có thể đã có sự sửa đổi câu chữ, tiêu biểu như là tên gọi Việt Nam, có thực là do Nguyễn Trãi viết ra hay không. Xét về nguồn gốc, thì chữ Việt 粤 này không khác với chữ Việt 越 trong tên Việt Nam ngày nay người Việt đang dùng, nên việc sử dụng chữ Việt bộ Mễ粤 trong tên gọi của Bách Việt và Việt Nam cũng thể hiện nhận thức về sự thống nhất và liên hệ của người Việt và người Bách Việt của Nguyễn Trãi, các nhà nho biên tập hoặc người sửa sang lại tác phẩm này.

Về phần này, chúng ta có thể kết luận hai chữ Việt 越 và 粤 giống nhau và có thể sử dụng thay cho nhau mà không thay đổi ý nghĩa, hay có sự phân biệt các vùng dựa trên các chữ này, chữ Việt thứ nhất được sử dụng phổ biến hơn so với chữ Việt thứ hai, trong hầu hết các tài liệu lịch sử ghi chép về các khái niệm “Lạc Việt”, “Dương Việt”, “Bách Việt”, đều sử dụng chữ 越, thể hiện sự thống nhất của cộng đồng tộc Việt dưới tên Việt tự nhận của người Việt. Vì vậy, các chữ 越 và 粤 không có nhiều ý nghĩa trong tìm hiểu về sự khác biệt của các vùng Việt.

IV. Kết luận:

Thông qua các tài liệu khảo cổ, lịch sử, ngôn ngữ học, chúng ta đã thấy được nguồn gốc của tên Việt là do người Việt tự nhận, khởi nguồn từ biểu tượng chiếc rìu trong văn hóa Lương Chử, sau đó, người Hoa Hạ đã dựa theo cách gọi của người Việt để chép vào Giáp Cốt văn, hình ảnh ban đầu cũng chính là biểu tượng chiếc rìu. Bên cạnh đó, chúng tôi cũng đã làm rõ nguồn gốc của khái niệm tộc Việt và các khái niệm tương đương với nó trong lịch sử Trung Hoa, những ghi chép lịch sử qua các khái niệm Lạc Việt, Dương Việt và Bách Việt đều thể hiện sự thống nhất trong một cộng đồng chung của tộc Việt. Các nghiên cứu khoa học khác như di truyền, khảo cổ, văn hóa, nhân chủng cũng cho thấy sự thống nhất của cộng đồng tộc Việt, từ đó, những nhận định cũ về cộng đồng tộc Việt dựa trên sự suy diễn khái niệm Bách Việt là không có đủ cơ sở khoa học.

Chúng tôi hy vọng rằng, những hiểu biết chính xác và khoa học hơn về nguồn gốc của tộc Việt, nguồn gốc của người Việt thông qua các nghiên cứu mà chúng tôi đã thực hiện sẽ góp phần vào sự thay đổi nhận thức của người Việt về nguồn gốc dân tộc, để từ đó đó có đủ cơ sở để có thể nhận diện được các dân tộc anh em của dân tộc mình, nhận diện được gốc rễ, tiến trình phát triển của tộc Việt, vị trí của người Việt trong cộng đồng này, xác định những di sản mà cộng đồng tộc Việt đã dựng xây trong quá trình hình thành và phát triển. Chúng tôi tin tưởng rằng, đây sẽ là nền tảng rất quan trọng, tạo nên nội lực để người Việt có thể có đủ tự tin và sức mạnh để xây dựng nên một nền văn hóa mới từ nền tảng văn hóa cổ trong một tương lai không xa.

Lang Linh


Tài liệu tham khảo:

[1] Lang Linh (2020), Bách Việt và cơ sở thống nhất của cộng đồng Bách Việt
https://luocsutocviet.com/2020/02/24/478-bach-viet-va-co-so-thong-nhat-cua-cong-dong-bach-viet/

[2] Lang Linh (2021), Bức tranh di truyền về nguồn gốc của người Việt
https://luocsutocviet.com/2021/08/19/550-buc-tranh-di-truyen-ve-nguon-goc-cua-nguoi-viet/

[3] Lang Linh (2021), Khảo cứu về chữ Việt cổ từ những tư liệu khảo cổ
https://luocsutocviet.com/2021/08/25/551-khao-cuu-ve-chu-viet-co-tu-nhung-tu-lieu-khao-co/

[4] Lang Linh (2021), Chữ viết của người Việt thời Hùng Vương
https://luocsutocviet.com/2021/03/14/511-chu-viet-cua-nguoi-viet-thoi-hung-vuong/

[5] Richard Sears. Các kiểu chữ Việt 戉. https://hanziyuan.net/#%E6%88%89.

[6] Richard Sears. Các kiểu chữ Việt 越. https://hanziyuan.net/#越.

[7] Zhang Ziping 张子平. Biểu tượng chạm khắc trên đồ gốm cổ và nguồn gốc của chữ Hán 上古陶器刻划符号与汉字起源[D]. Đại học Vân Nam 云南大学,2010.

[8] Đội khảo cổ Thạch Gia Hà 石家河考古队 (1999). Tiêu Gia Ốc Tích 肖家屋脊: Nhà xuất bản Văn Vật 文物出版社.

[9] Nguyễn Văn Huyên, Vinh Hoàng (1975). Những trống đồng Đông Sơn đã phát hiện ở Việt Nam. Hà Nội.

[10] M. Ferlus (2011), Les Baiyuè (百越) ou les “pays des (horticulteurs/mangeurs de) tubercules”. 24 ème Journées de Linguistiquedel ’Asie Orientale, 30 juin – 1er juillet 2011, Paris, 12 pp.

[11] Hoàng Nguyễn, Văn hóa Thạch Gia Hà và nguồn gốc dân tộc Việt.
https://www.facebook.com/permalink.php?story_fbid=10162414047920526&id=519710525

[12] Đổng Sở Bình 董楚平; “Phương Việt hội thi” “方钺会矢” – Một trong những diễn giải về các nhân vật Lương Chử 良渚文字释读之一[J];东南文化;2001年03期.

[13] Li Xueqin 李学勤: ” Văn tự đồ gốm của văn hóa Lương Chử” “良渚文化的多字陶文”, Tạp chí Đại học Tô Châu 苏州大学学报 (Đặc san Nghiên cứu về Ngô 吴学研究专辑)”, 1992年。

[14] Wang Hui 王晖: Nhìn vào niên đại xuất xứ của các ký tự Trung Quốc từ việc so sánh các bản khắc và chữ khắc trên xương bằng thần tiên với các tài liệu khảo cổ – và thảo luận về nguồn gốc của các bản khắc gốm và chữ Hán một phần của nhóm văn hóa Lương Chử 从甲骨文金文与考古资料的比较看汉字起源时代 – 并论良渚文化组词类陶文与汉字的起源”, “Tạp chí Khảo cổ học” “考古学报” 2013年第3期。

[15] Viện Di tích Văn hóa và Khảo cổ học tỉnh Hồ Nam, Neolithic Gaomiao Site in Hongjiang City, Hunan

[16] LaPolla FAHA, Randy. (2010). Language Contact and Language Change in the History of the Sinitic Languages. Procedia – Social and Behavioral Sciences. 2. 6858-6868. 10.1016/j.sbspro.2010.05.036.

[17] Lang Linh (2021), Ngữ hệ Nam Á và nền văn minh sông Dương Tử .
https://luocsutocviet.com/2021/09/28/552-ngu-he-nam-a-va-nen-van-minh-song-duong-tu/

[18] Lee H-YH and Clontz J . 2012. Reviewing the prehistoric linguistic relationships of the Tai—Kadai language family and its putative linguistic affiliations: a meta—analysis study and abbreviation edition Abstract. Journal of Liberal Arts Prince of Songkla University 4(1):20–38.

[19] Jerry Norman & Tsu-Lin Mei (1976) The Austroasiatics in Ancient South China: Some Lexical Evidence, Monumenta Serica, 32:1, 274-301, DOI: 10.1080/02549948.1976.11731121

[20] Delancey, Scott. “The origins of Sinitic.” (2013).

[21] Dương Huy Thiện, Quốc Tổ Hùng Vương trong tâm tưởng người Dao
baophutho.vn/den-hung/tin-nguong-hung-vuong/201603/quoc-to-hung-vuong-trong-tam-tuong-nguoi-dao-14793

[22] Ko AM, Chen CY, Fu Q, et al. Early Austronesians: into and out of Taiwan. Am J Hum Genet. 2014;94(3):426-436. doi:10.1016/j.ajhg.2014.02.003

[23] Sun, Jin & Li, Yingxiang & Ma, Pengcheng & Yan, Shi & Cheng, Hui-Zhen & Fan, Zhi-Quan & Deng, Xiao-Hua & Ru, Kai & Wang, Chuan-Chao & Chen, Gang & Wei, Ryan. (2021). Shared paternal ancestry of Han, Tai-Kadai-speaking, and Austronesian-speaking populations as revealed by the high resolution phylogeny of O1a-M119 and distribution of its sub-lineages within China. American journal of physical anthropology. 174. 10.1002/ajpa.24240.

[24] Phan Anh Dũng, Tên gọi Việt Lạc (Lạc Việt) có từ trước đời Thành Thanh
http://fanzung.com/?p=2213

[25] Phan Anh Dũng, Về phạm vi cư trú của người Lạc Việt
http://fanzung.com/?p=2379

[26] Phan Anh Dũng (2020), Khảo sát tên gọi Văn Lang trên cơ sở ngữ âm lịch sử
vanhoanghean.com.vn/component/k2/111-goc-nhin-van-hoa-2/13730-khao-sat-ten-goi-van-lang-tren-co-so-ngu-am-lich-su

[27] Lang Linh (2021), Khảo sát một số vấn đề địa lý thời Bắc thuộc
https://luocsutocviet.com/2021/05/03/527-khao-sat-mot-so-van-de-dia-ly-thoi-bac-thuoc/

[28] Sử ký Tư Mã Thiên, Tư Mã Thiên (Phan Ngọc dịch), NXB Văn Học, 2003.

[29] Âu Đại Nhậm, Bách Việt tiên hiền chí – Lĩnh Nam di thư. Trần Lam Giang dịch. Thư viện Việt Nam xuất bản 2012.

[30] Lang Linh (2021), Sở, Ngô, Việt có phải tộc Việt không?
https://luocsutocviet.com/2021/03/19/513-so-ngo-viet-co-phai-toc-viet-khong/

Bình luận về bài viết này

Trang web này sử dụng Akismet để lọc thư rác. Tìm hiểu cách xử lý bình luận của bạn.