Chữ Việt của đề tài bài viết này có hai nghĩa chánh: nghĩa thứ nhất chỉ bộ tộc Việt, nước Việt Nam, nghĩa thứ hai chỉ tính Việt hay nói rõ hơn là tính cách siêu việt trong tinh thần của Triết Việt, Đạo Việt, sử Việt với danh hiệu Anh Thư. Chữ Việt như vậy mang cả hai nghĩa đó đồng thời, cho nên phụ nữ Việt tất phải có ý nghĩa cao quý, trang trọng, mà người viết theo khả năng hiểu biết hạn hẹp của mình cố gắng phát họa đôi nét đan thanh. Do tính cách lưỡng nghĩa này, mà đề tài không đóng khung trong phạm vi hạn hẹp phân biệt nam nữ, dân tộc, mà mang tính nhân loại phổ biến, vì nhân bản tâm linh siêu việt (tính Việt) là Tính thể của con người mà ai cũng có.
Trong những thời về sau này, người ta thường nói đến vấn đề giải phóng phụ nữ, đề cao vai trò phụ nữ, nhất là ở các nước dân chủ tiên tiến, còn ở Việt Nam hiện nay thì vấn đề này gắn liền với nhân quyền nói chung, cho nên rất phức tạp mà cũng rất tế nhị.
Tại sao lại hô hào giải phóng phụ nữ? Khi đặt câu hỏi như vậy tất phải có vấn đề. Để có cái nhìn bao quát, chung ta thử xét từ nguồn gốc.
Vào thời buổi sơ nguyên, con người sinh sống nhờ vào những sản vật sẵn có trong thiên nhiên, đàn ông chuyên đi săn thú, đàn bà lo việc hái lượm. Dần dà theo thời gian nhân số tăng lên, của cải vật chất trong thiên nhiên không đủ cung ứng nữa, cuộc sống gặp khó khăn, cho nên con người tìm cách thay đổi cách sống. Ngành săn thú chuyển thành chăn nuôi, rồi du mục. Ngành hái lượm chuyển sang trồng trọt, rồi trở thành nông nghiệp qui mô hơn với kỹ thuật gieo gặt, cày cấy, tưới tiêu, thuần súc vật cho việc cày bừa. Vào những thời buổi đầu của giai đoạn này, trong khi các bà lo việc trồng trọt, gieo gặt thì rất có thể các ông vẫn còn mãi mê rong ruổi việc săn bắn, cho nên đàn bà ở nhà quán xuyến hầu hết mọi việc, do đó có vai trò, địa vị rất quan trọng trong gia đình, dòng tộc dưới hình thái thị tộc mẫu hệ. Trong thời này, con cái chịu ảnh hưởng ở người mẹ nhiều hơn, nhiều khi không còn biết đến cha.
Nhóm Việt tộc khi xưa có mặt rất sớm ở khu vực rộng lớn Động Đình Hồ, có nền văn hóa đặc thù gọi là văn hóa nông nghiệp, coi trọng người mẹ (mẫu quyền), trong khi văn hóa du mục phía Tây Bắc coi trọng người cha hơn (phụ quyền). Hai nền văn hóa nguyên thủy này giao lưu, pha trộn, chi phối đời sống các dân tộc Á Đông. Tùy theo liều lượng, mức độ lên xuống của các thành phần mà ai là chủ gia đình, mẹ hay cha? Việt tộc thuộc văn hóa nông nghiệp, chuộng sự hiền hòa, nhu thuận, cho nên đương nhiên là chủ nhân của Việt Nho, hay Nho nguyên thủy, một nền văn hóa thâm thúy, sâu rộng như biển cả đã khắc ghi dấu ấn vào tiềm thức cộng thông của dân tộc qua ca dao:
“Rừng Nhu bể Thánh khôn dò,
Nhỏ mà không học, lớn mò sao ra.”
Người phụ nữ, người mẹ có nếp sống thiên về tình cảm, nội tâm, cho nên ngoài đức tính hiền hòa, nhu thuận còn có khả năng nhạy bén nắm bắt ánh sáng tâm linh, nên xứng đáng được nâng lên hàng nguyên lý mẹ. Mẹ là suối nguồn của Triết lý nhân sinh phổ biến, cho nên người xưa tôn vinh đàn bà là đại biểu cho Minh triết như bên Hy Lạp có Sophia, bên Việt Nam có Âu Cơ.
Tinh hoa Minh triết Việt cô đọng trong những mẫu chuyện huyền thoại của sách Lĩnh Nam Trích Quái mà nổi bật nhất là truyện “Hồng Bàng Thị “đã trở thành huyền sử nước Việt Nam. Truyện kể có ngững đoạn đáng ghi nhớ như sau:
“…Kinh Dương Vương xuống Thủy Phủ, cưới con gái vua Động Đình là Long Nữ, sinh ra Sùng Lãm tức Lạc Long Quân; Lạc Long Quân thay cha để trị nước, còn Kinh Dương Vương thì không biết đi đâu. Lạc Long Quân dạy dân ăn mặc, bất đầu có trật tự về quân thần, tôn ty, có luân thường về phụ tử, phu phụ… … Âu Cơ ở với Lạc Long Quân giáp một năm, sinh ra một bọc trứng, cho là điềm không hay nên đem bỏ ra ngoài đồng nội; hơn bảy ngày, trong bọc nở ra một trăm trứng, mỗi trứng là một con trai…
Long Quân ở lâu dưới thủy phủ; mẹ con ở một mình, nhớ về Bắc quốc liền đi lên biên cảnh; Hoàng Đế nghe tin lấy làm sợ mới phân binh trấn ngự quan tái; mẹ con không về Bắc được, đêm ngày gọi Long Quân:
– Bố ở phương nào làm cho mẹ con ta thương nhớ!
Long Quân hốt nhiên lại đến, gặp mẹ con ở Tương Dã… Long Quân bảo:
-Ta là loài rồng, sinh trưởng ở thủy tộc; nàng là giống tiên, người ở trên đất, vốn chẳng như nhau, tuy rằng khí âm dương hợp lại mà có con, nhưng phương viên bất đồng, thủy hỏa tương khắc, khó mà ở cùng nhau trường cửu…
Đạo Việt, Triết Việt đã nằm ngay trong huyền thoại này. Mẹ Âu Cơ “dung mạo đẹp lạ lùng “đẻ ra bọc trăm trứng, nở ra trăm con, người nào cũng “trí dũng song toàn “, là biểu tượng của Bách Việt, xứng đáng là nguyên lý mẹ của nền Minh triết Việt. Cha Lạc Long Quân siêu việt, phi thường, ngoài những kỳ tích diệt trừ Ngư Tinh, Hồ Tinh, còn lo dạy dân từ cách sinh sống cho tới đạo lý làm người khiến cho trăm họ yên vui, thật xứng đáng trở thành nguyên lý cha của Đạo Việt.
Nòi rồng, giống Tiên tuy tương sinh mà cũng tương khắc, nên có sum họp rồi cũng có lúc phân ly. Nhưng ngay liền sau đó lại vang lên tiếng gọi tha thiết từ Tình nghĩa thâm sâu: “Dù lên núi xuống nước, nhưng có việc thì cùng nghe, không được bỏ nhau. “và để rồi “gặp nhau ở Tương Dã”. Chữ Tương là nét đặc trưng của Triết Việt, chứng tỏ cặp nguyên lý mẹ, cha là cặp lưỡng hợp, lưỡng nhất chứ không phải nhị nguyên chọn một bỏ một. Về sau Việt Nho tổng quát hóa cặp nguyên lý mẹ – cha thành cặp nguyên lý âm – dương ở kinh Dịch và hiện nay người ta lại thấy cặp nguyên lý mâu thuẫn xuất hiện trong phép biện chứng quân bình (Đường vào Triết học VN, phần II- N. V. N).
Tại sao sách Dịch nói âm dương, mà không nói dương âm? Hệ từ có câu: “Thiên tôn, Địa ty, Kiền Khôn định vị ”ý nói khí dương nhẹ có khuynh hướng bay lên cao, còn khí âm nặng chìm xuống thấp. Mọi công trình xây dựng đều phải được bắt đầu từ thấp lên cao, cho nên âm phải được đặt trước dương. Hơn nữa trong lịch trình biến hóa của vũ trụ, ở thời hỗn nguyên (Chaos) chưa có ánh sáng, âm cực dương mới sinh, Thiếu dương trong Thái âm mà ra, có lẽ vì thế mà người ta đặt âm trước dương.
Trong truyện “Hồng Bàng Thị “có mấy đoạn như sau: “Lạc Long Quân thay cha để trị nước, còn Kinh Dương Vương thì không biết đi đâu. ““Lạc Long Quân đã về Thủy Phủ, trong nước không vua. ““Đế Lai chu lưu khắp thiên hạ, trải xem tất cả hình thể, trông thấy kỳ hoa dị thảo, trân cầm dị thú…ái mộ quá, quên cả ngày về. “
“Âu Cơ cùng với năm mươi người con trai ở tại Phong Châu, tự suy tôn người hùng trưởng lên làm vua, hiệu là Hùng Vương, quốc hiệu là Văn Lang “
Tình trạng của giai đoạn huyền sử này phản ảnh những đặc tính thị tộc mẫu quyền buổi sơ nguyên, người mẹ quán xuyến hầu hết mọi việc trong gia đình, chăm lo cho con cái như lời than trách của mẹ Âu Cơ: “Bố ở phương nào làm cho mẹ con ta thương nhớ!. “Như vậy người đàn bà, người mẹ Việt từ xưa đã giữ vai trò quan trọng trong xã hội có nền văn hóa nông nghiệp do Viêm Đế Thần Nông khởi xướng (Mở đầu truyện Hồng Bàng Thị: “Cháu ba đời Viêm Đế họ Thần Nông tên là Đế Minh, sinh ra Đế Nghi …“). Thần Nông là nhân vật huyền thoại của Viêm Việt, là đại biểu cho nền văn hóa nông nghiệp lấy nguyên lý mẹ làm trọng, cho nên có những đặc tính nói chung như sau:
- Đề cao mẫu quyền
- Thiên về tình cảm
- Chuộng văn, hiếu hòa
- Chủ trương nhân trị, vương đạo, truyền hiền …
Trong khi văn hóa du mục:
- Đề cao phụ quyền
- Thiên về lý trí
- Chuộng uy vũ, hiếu chiến, thích chinh phục.
- Chủ trương pháp trị, bá đạo, thế tập…
Truyện Hồng Bàng Thị cũng có đoạn ghi như sau: “Đế Lai trở về Bắc truyền ngôi cho Đế Du Võng. Du Võng truyền lại cho Xi Vưu cùng với Hoàng Đế đánh nhau ở Bản Tuyền và Trác Lộc không hơn nên tử trận. Họ Thần Nông bèn mất.”
Triết gia Kim Định trong tác phẩm ”Việt lý tố nguyên” đã làm sáng tỏ giai đoạn huyền sử này nhất là chương 3: Tìm về nguồn gốc Việt Hoa theo sử truyện có những điểm được ghi nhận như sau:
Con người xuất hiện vào lối 500.000 năm trước, rồi lần lượt bị tiêu diệt qua bốn đợt băng tuyết. Những người còn sống sót sau này, một nhóm di chuyển sang phía Tây là thủy tổ giống da trắng, nhóm khác tiến về phía Đông là thủy tổ giống da vàng. Nhóm này lại chia ra làm hai hệ:
Bắc tam hệ gồm phái Mãn tộc chiếm lĩnh vùng cực Đông Bắc Trung Hoa ngày nay, phái Mông Cổ chiếm lĩnh phía Bắc, phái Đột Quyết (Turcs) chiếm lĩnh Tây Bắc.
Nam tam hệ gồm Viêm, Hoa, Tạng. Viêm tộc cũng gọi là Miêu tộc và Việt tộc. Thoạt kỳ thủy Viêm tộc theo dòng sông Dương Tử vào sinh sống khắp vùng Trung nguyên, lan cả xuống phía Nam, và lên phía Bắc tới vùng Hoàng Hà. Theo Chu Cốc Thành trong quyển “Trung Quốc thông sử” thì Viêm tộc đã có mặt khắp nước Trung Hoa cổ đại trước rồi. Hoa tộc khi đó còn sống đợt săn hái trên vùng Tây bắc, về sau mới theo sông Hoàng Hà tiến vào Bắc Trung Hoa chiếm đất của Viêm tộc ở vùng này, bị Xi Vưu, lãnh tụ của Viêm tộc chống cự. Lãnh tụ Hoa tộc lúc đó là Hiên Viên đánh nhau với Xi Vưu ở Bản Tuyên và Trác Lộc. Khi Xi Vưu thua, tử trận, Hoa tộc chiếm cả vùng Hoàng Hà để lập quốc, Hiên Viên xưng hiệu là Hoàng Đế.
Lý do sự thất bại của Viêm tộc ngay giai đoạn đầu này là vì sống rải rác trên một lãnh thổ quá rộng lớn trong tình trạng thị tộc, tuy có văn hóa khá cao nhưng kém võ nghệ, thiếu óc tổ chức, kết hợp thì làm sao chống cự nổi với đoàn người du mục thiện chiến. Sau khi chiến thắng, Hiên Viên chiếm lãnh thổ của Viêm tộc làm lãnh thổ của mình, nhận tất cả phát minh của Xi Vưu làm của mình, thâu nhận văn hóa của Viêm tộc vào Hoa tộc cho nên trong sách Quản Tử mới có câu: ”Tích giả Hoàng Đế đắc Xi Vưu nhi minh ư thiên đạo” ý nói rằng Hoàng Đế nhờ tiếp thu văn minh của Xi Vưu nên mới hiểu rõ thêm được đạo trời.
Hoàng Đế (2697 tr CN) có thể được xem là đại biểu của nền văn hóa du mục phát xuất từ hướng Tây Bắc, lần đầu tiên có sự giao lưu, tiếp thâu văn hóa nông nghiệp của con cháu Thần Nông (3320-3080 tr. CN) pha trộn với văn hóa du mục, cho nên chế độ mẫu quyền cũng chuyển dần sang phụ quyền. Có nhiều đợt xâm lăng của Hoa tộc như vậy và Việt tộc cứ lui dần về phương Nam.
Khổng Tử (551- 479 tr. CN) nói: “Thuật nhi bất tác, tín nhi hiếu cổ, thiết tỉ ư ngã Lão Bành.”: thuật lại cái đạo của thánh hiền mà tự mình không tạo tác ra cái gì, tin mà thích đạo đời xưa, ta trộm ví như ông Lão Bành (LN: Thuật nhi VII- Nho giáo T. T. Kim tr. 185). Lão Bành là quan Đại phu đời nhà Thương cũng hay thuật lại những việc đời xưa. Như vậy Nho không phải do Khổng Tử sáng tạo, mà đã có từ xưa rồi; cũng không thể từ văn minh du mục Tây Bắc, mà nhất định phải phát xuất từ văn hóa nông nghiệp Đông Nam. Khổng Tử có công san định, khai triển, hệ thống hóa làm cho Nho khởi sắc thêm lên.
Việc đốt sách Nho, chôn học trò của Tần Thủy Hoàng (259- 210 tr. CN) chứng tỏ Nho là tinh hoa văn hóa nông nghiệp của Việt tộc, chủ trương nhu thuận, hiếu hòa, nhân trị, trong khi nhà Tần gốc du mục, hiếu chiến, thích chinh phục, xâm lăng, chủ trương pháp quyền. Nếu Nho là của Hoa tộc thì tại sao lại có vụ “phần thư khanh nho”. Còn việc thống nhất chữ viết, xóa bỏ chữ viết của Việt tộc từ đời Tần Thủy Hoàng đươc các đời sau nối tiếp qua việc cấm người Việt duy trì chữ viết riêng là chủ trương đồng hóa của đế quốc phong kiến phương Bắc.
Đến khi Lưu Bang đánh bại Hạng Võ (202 tr. CN) lập ra nhà Hán, do nhu cầu mới, nên thay đổi quan điểm, thỏa hiệp với Nho, nhưng lại lái sang hướng có lợi cho vương quyền thành ra Hán Nho, có nhiều điểm khác Nho nguyên thủy. Câu nói của Hán Cao Tổ là bằng chứng rõ ràng, rằng Nho nguyên thủy không phải là của riêng của Hoa tộc vốn thuộc văn minh du mục: “Mình có thể ngồi trên lưng ngựa mà lấy được thiên hạ, nhưng không thể ngồi trên mình ngựa mà trị thiên hạ.”
Truyện “Hồng Bàng Thị” có những đoạn nói về địa phương Nam Bắc:
“Cháu ba đời Viêm Đế họ Thần Nông tên Đế Minh, sinh ra Đế Nghi, rồi đi Nam tuần đến Ngũ Lĩnh…”
«… phong Lộc Tục làm Kinh Dương Vương cai trị phương Nam…”
“Đế Lai trở về Bắc truyền ngôi cho Đế Du Võng. Du Võng truyền lại cho Xi Vưu…”
“Long Quân ở lâu dưới Thủy Phủ; mẹ con ở một mình, nhớ về Bắc quốc liền đi lên biên cảnh; Hoàng Đế nghe tin lấy làm sợ mới phân binh trấn ngự quan tái…”
Nam Bắc ở giai đoạn này dùng để qui định phương vị của một vùng quá rộng lớn của Viêm tộc khi xưa, khác hẳn với cặp phạm trù Nam Bắc thời Lý Thường Kiệt đánh bại quân Tống xâm lược. Như vậy lãnh thổ của Việt tộc buổi ban đầu rộng mênh mông đến vùng Thái Sơn, cho nên vẫn còn in sâu trong tiềm thức dân tộc qua ca dao:
“Công cha như núi Thái Sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.
Một lòng thờ mẹ kính cha,
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.”
Ngoài địa danh Thái Sơn xác định biên giới cực Bắc nguyên thủy của Việt tộc, bài ca dao còn cho biết Đạo Việt là Đạo Hiếu thờ Tổ Tiên, cho nên hàng năm dân tộc Việt đều cử hành trọng thể Quốc Lễ Giỗ Tổ Hùng Vương.
Hùng Vương là con Lạc Long Quân thuộc loài rồng và Âu Cơ thuộc giống Tiên.
Người xưa nói: ”Trí giả nhạo thủy. Nhân giả nhạo sơn” nên Lạc Long Quân thích ở Thủy Phủ, còn Âu Cơ thích ở núi, nên đưa năm mươi con lên Phong Châu. Nhưng trong bài ca dao lại ví công cha như núi, còn nghĩa mẹ thì lại như nước, như vậy có lộn xộn không? Xin thưa, nếu theo quan điểm của triết học duy lý thì quả thật lộn xộn hết cỡ, nhưng chính cái lộn xộn này mới là tinh hoa của Việt lý, là tiền đề cho cái ý tưởng của kinh Dịch: “trong âm có dương, trong dương có âm”, là cốt tủy của triết lý lưỡng hợp, tương đối, khác hẳn với nhị nguyên chọn mặt này bỏ mặt kia dứt khoát. Huyền thoại biểu thị tinh thần một dân tộc vào thời sơ nguyên u linh nên không thể chỉ lấy óc duy lý thời nay mà phê phán một cách máy móc, mà quan trọng là có phản ảnh tính Minh triết hay không. Người mà gốc ở Tiên, Rồng, bọc trăm trứng nở ra thì thật là vô lý, nhưng khi xét đến huyền thoại là phải siêu vượt qua sự kiện để xét cơ cấu uyên nguyên và biểu tượng của nó. Tiên Rồng là biểu tượng cho nguyên lý mẹ, cha, âm, dương; còn bọc trăm trứng là biểu tượng Bách Việt. Khi huyền thoại nối kết với những mảnh vụn lịch sử thì được gọi là huyền sử.
Vật biểu của Việt Nam từ xưa là cặp Tiên Rồng, còn vật biểu của Tàu lần lượt là Cú, Cá, Cọp rồi mới tới Rồng, mà chỉ có Rồng độc dương thì làm sao có “sinh sinh chi vị Dịch”. Vậy thì ai mới đích thực là chủ nhân của kinh Dịch? Thật ra văn hóa tự thân bao giờ cũng có tinh thần “vô phương, vô xứ”, có tinh thần nhân loại phổ biến, được con người trân trọng, còn văn hóa nô dịch của chủ nghĩa đế quốc độc chiếm bá chủ nhằm nô lệ con người, kỳ thị chủng tộc thì có ai hoan nghênh. Cũng như trong thế giới loài người văn minh ngày nay, việc tự tiện lấy những công trình sáng chế, phát minh của người để sản xuất thủ lợi thì công pháp quốc tế nào lại chấp nhận? Theo tinh thần Nho nguyên thủy, quân tử là mẫu người lý tưởng, phải luôn lấy công minh, chính trực làm đầu, mà hễ đi ngược lại với tinh thần đó là đã mặc nhiên từ chối chủ quyền đích thực của Nho rồi.
Lời kêu gọi tình thương trong ca dao:
“Bầu ơi thương lấy bí cùng,
Tuy rằng khác giống, nhưng chung một giàn”
không chỉ có ý nghĩa giới hạn ở phạm vi nước Việt Nam như hiện nay, mà trong quá khứ địa bàn của Việt tộc còn rộng lớn hơn nhiều, bao gồm cả vùng Thái Sơn phía Bắc. Đó là nói về không gian lãnh thổ, còn nói về thời gian, khi so sánh niên đại huyền sử: Thần Nông 3320 – 3080, Hồng Bàng 2879, Hoàng Đế 2697 thì thấy họ Hồng Bàng của nước Văn Lang, tức nước Việt Nam xưa còn trước cả Hoàng Đế của Hoa tộc 182 năm. Những người dựa vào quan điểm duy lý, duy kiện, duy sử từ chối huyền sử là cốt để làm lung lạc lòng tự hào “bốn ngàn năm văn hiến”, đè bẹp ý thức dân tộc Việt để dễ bề thôn tính, đồng hóa. Ấy vậy mà vua Tự Đức là người có chủ trương này, cho nên ác quả đã đến và nước Việt Nam mất vào tay đế quốc thực dân Pháp ở ngay triều đại này.
Với nguồn gốc của Việt tộc xác định trong không gian, thời gian rộng lớn như vậy, cùng với nguồn gốc hai nền văn hóa, văn minh nông nghiệp, du mục, nguồn gốc Nho, Dịch trong sự giao lưu nhất định nào đó thì không thể nói một cách đơn giản là người Tàu đã đem văn hóa Hoa tộc giáo hóa cho dân Việt, người Việt có nguồn gốc từ Tàu. Sự thật thì văn hóa nông nghiệp đi với Nho, Dịch là của Viêm tộc bao gồm cả Việt tộc từ trước, Tàu tiếp thâu, có công khai triển làm cho hoàn chỉnh, nhưng chủ trương độc quyền chữ viết, xóa bỏ dấu tích để giữ độc quyền chủ nhân văn hóa. Nói rằng người Việt Nam có gốc từ Tàu là kiểu nói hàm hồ dựa trên phạm vi biên cương lãnh thổ ngày nay để nói về nguồn gốc xa xưa, kiểu nói lập lờ, mà thực ra dựa vào dòng máu chủng tộc thì có thể nói rằng đại đa số người Tàu hiện nay đều có gốc Việt, bởi vì tổ tiên của họ đã không di cư kịp về phía Nam trong những lần xâm lăng của Hoa tộc từ Tây Bắc, mà lần đầu là vụ “Hoàng Đế chiến Xi Vưu”. Những người gọi là Việt gốc Hoa thì thật ra phải gọi là người Việt tìm về cội nguồn, về với Tổ theo tiếng chim gọi đàn mới phải.
Do những điều minh xác như trên, những ngộ nhận về nguồn gốc của một số huyền thoại, điển tích, chuyện cổ tích của Việt Nam đã từ lâu có người cho rằng được Việt hóa từ Tàu thì thật ra là của chung của Việt tộc từ xưa rồi, vì thời đó làm gì đã có nước Tàu? Những nhân vật huyền thoại lớn như Toại Nhân, Hữu Sào, Phục Hy, Nữ Oa, Thần Nông… cũng rơi vào trường hợp như vậy. Thần Nông dạy dân cày cấy, Phục Hy làm ra tám quẻ Dịch, trong đó có quẻ Li là lửa giúp cho con người bước vào đời sống văn minh hơn. Quẻ Li có một hào âm ở giữa hai hào dương, có ý nghĩa là lửa, cũng là hình ảnh một bà hai ông Táo trong truyện cổ tích Việt Nam. Luận bàn về câu chuyên này, văn học bình dân có phê phán:
“Thế gian một vợ một chồng,
Không như vua bếp hai ông một bà.”
Chuyện cổ tích cũng như huyền thoại là những mẫu chuyện từ xa xưa rất có thể ở vào thời thị tộc mẫu hệ, mẫu quyền, người đàn bà có quyền hơn, cho nên cảnh một bà hai ông rất có thể có do tình nặng hơn lý, nhưng sau đó có sự quân bình, lý tình tương dung do ý nghĩa chữ Tương (Long Quân hốt nhiên lại đến, gặp mẹ con ở Tương Dã). Nhưng khi Hoa tộc xâm lăng Viêm tộc thì văn minh du mục thắng thế, cán cân quân bình giữa hai nguyên lý mẹ- cha nghiêng hẳn về phía phụ quyền, sau lại được tăng cường thêm bởi pháp quyền cho nên đàn bà từ đó bước vào khuôn khổ được ca ngợi như là một đức hạnh: đó là tứ đức, tam tòng. Tứ đức thì đã đành:
“Phận gái tứ đức vẹn tuyền,
Công, Dung, Ngôn, Hạnh giữ gìn chẳng sai.”
Còn tam tòng thì sao?
“Tam tòng tích hãy còn ghi,
Bé nương cha mẹ, già thì theo con.”
Tam tòng là “tại gia tòng phụ, xuất gía tòng phu, phu tử tòng tử.” Ngày xưa, khi người chồng chết, người vợ không được tái giá. Khi Tần Thủy Hoàng chết, hàng ngàn cung phi mỹ nữ phải bị chôn sống theo.
Công chúa Huyền Trân: Theo văn hóa Bà La Môn, khi chồng chết, vợ phải bị hỏa tán theo, cho nên khi Chế Mân băng hà, Công chúa Huyền Trân đáng lẽ cũng bị hỏa táng theo Chiêm vương nếu không được tướng Trần Khắc Chung cứu thoát. Do việc hôn nhân có tính toán và tình xưa nghĩa cũ này mà trong dân gian có ca dao châm biếm:
“Tiếc thay hạt gạo trắng ngần,
Đã vo nước đục lại vần lửa rơm.”
Thực ra Công chúa Huyền Trân chỉ là nạn nhân của một kịch bản chánh trị, nàng đã chấp nhận hy sinh cuộc đời son trẻ vì ích nước lợi dân để quốc gia có được hai châu Ô, Lý trọng yếu, có tính chiến lược bảo đảm nền an ninh lâu dài cho Đại Việt, vì trong chiến tranh kháng Mông, Toa Đô đã chiếm cứ vùng đất này làm bàn đạp để mở cuộc tấn công từ mặt Nam. Thật là một sự hy sinh cao cả, êm thấm cho hòa bình lâu dài của dân tộc mà ngày nay chưa chắc có ai sánh kịp khi đối chiếu với sự kiện Tây Nguyên, vùng chiến lược yết hầu của Tổ quốc trước hiểm họa ngoại xâm.
So sánh với văn hóa du mục Tây Bắc, văn hóa Bà La Môn thì văn hóa nông nghiệp của Việt tộc nhờ đề cao nguyên lý mẹ, cho nên mặc dầu dưới ảnh hưởng “Tam tòng” của Hán Nho mà người phụ nữ Việt vẫn được tôn trọng như ở luật Hồng Đức triều Lê:
“Về hôn thú, người con gái có quyền công nhận hay phủ nhận việc hôn nhân mỗi khi có người tới hỏi làm vợ. Như vậy cha mẹ chỉ đóng vai cố vấn trước vấn đề gia thất của con cái…
Quyền thừa hưởng gia tài của phụ nữ được ngang với nam giới, ngoại trừ một phần hai mươi là của hương hỏa dành cho người con trưởng để lo việc thờ cúng tổ tiên. Nếu cha mẹ không có con trai nối dõi thì con gái được đặt để vào nhiệm vụ đặc biệt này…
Phụ nữ phạm tội cũng được xử nhẹ hơn…
Chiếu các điều kể trên, luật pháp Lê triều tôn trọng quyền lợi phụ nữ và có bề nhân đạo hơn là đối với đàn ông.” (Việt Sử Tân Biên – Phạm Văn Sơn tr. 552-553)
Tính cách luân lý “tam tòng” của Hán Nho thật ra không chi phối hoàn toàn đời sống của phụ nữ Việt nhất là ở nông thôn, nơi còn giữ được truyền thống Đạo Việt vốn coi trọng nguyên lý mẹ. Văn chương bình dân phản ảnh điều đó thật rõ ràng. Trong sự giao thiệp trai – gái với nhau, con gái cũng có lúc chủ động:
“Vào vườn hái quả cau xanh,
Bổ ra làm sáu mời anh xơi trầu…”
Nếu con trai trêu ghẹo con gái
“Tròng trành như nón không quai,
Như thuyền không lái, như ai không chồng…”
Thì con gái cũng không chịu thua, phản công lại ngay:
“Trâu kia kén cỏ bờ ao,
Anh kia không vợ đời nào có con?
Người ta con trước, con sau,
Thân anh không vợ như cau không buồng.
Cau không buồng như tuồng cau đực.
Trai không vợ cực lắm anh ơi!
Người ta đi đón, về đôi,
Thân anh đi lẻ, về loi một mình!
Hôn nhân là hệ quả của tình yêu lứa đôi, mà cũng không vượt ra vòng lễ nghĩa, làm đẹp lòng mẹ cha trong truyền thống Đạo Việt:
“Mình về ta chẳng cho về,
Ta níu lấy áo ta đề câu thơ.
Câu thơ hai chữ rành rành,
Mẹ cha chữ hiếu, chữ tình đôi ta.”
Bởi thế người con gái khôn khéo nhắc nhở người con trai:
“Trời cao hơn trán,
Nước sáng hơn đèn,
Kèn kêu hơn quyên,
Biển rộng hơn sông,
Mựa đừng thương trước uổng công.
Chờ cho thiệt vợ, thiệt chồng hãy hay.”
hay:
“Ngó lên chữ ứ,
Ngó xuống chữ ư,
Anh thương em thủng thẳng em ừ,
Anh đừng thương vội phụ mẫu từ không hay.”
Sau đó người con gái đề nghị cụ thể:
“Như anh có muốn cùng em,
Anh lo sáu lễ phòng đem đến nhà.”
Người con trai nghe nói, mừng hết cỡ:
“Tôi về thưa với mẹ cha,
Chạy lo sáu lễ đem qua cưới nàng.”
Cũng có khi tâm ý không hợp, người phụ nữ có quyền quyết định đường ai nấy đi để khỏi bận lòng nhau:
“Ối thôi! Tôi muốn bức rời duyên nợ,
Anh kiếm vợ, em lại lấy chồng.
Làm chi đày đọa khách quần hồng buồn lo?
Mặc dầu dưới ảnh hưởng của Hán Nho sa đọa, tính Việt vẫn còn âm ỉ nơi tiềm thức, như dòng sữa mẹ vô tận nuôi dưỡng mọi con dân Lạc Hồng, đang chờ cơ hội phục sinh.
Ngoại trừ thời đại Lý Trần, Tam Giáo Đồng Nguyên đã đem lại sinh khí cho Đại Việt (1*), còn kể từ sau thời Hồng Đức, văn hóa hoàn toàn rập khuôn theo Hán Nho, Tống Nho độc tôn, chuộng hình thức, thiếu hẳn chiều sâu tâm linh, cho nên sa đọa đến tận cùng đáy vực ở triều vua Tự Đức với chủ trương “bế quan tỏa cảng”, phủ nhận huyền sử, là tinh hoa dân tộc. Hậu quả đương nhiên là mất nước về tay thực dân Pháp, và từ đây làn sóng văn minh, văn hóa phương Tây bắt đầu tràn vào Việt Nam.
Tư tưởng trong văn hóa phương Tây bắt nguồn từ Hy Lạp cổ. Cũng như mẹ Âu Cơ là hiện thân của Minh triết Việt thì Sophia là nữ thần Minh triết Hy Lạp, nguyên lý mẹ với tình cảm bao la lan tỏa. Đến Socrate thì Minh triết biến mất, chỉ còn lại tri thức, ông đề cao lý trí đến nỗi đồng hóa tri thức với đức hạnh là một (Wissen und Tugend sind eins). Rồi Platon lấy ý niệm làm đối tượng cho mọi tồn tại, Aristote đưa ra luận lý hình thức. Cả ba ông Triết gia này đã thiết lập ra nền triết học duy lý, chi phối vận mệnh triết học phương Tây hơn hai mươi thế kỷ nay. Còn đâu tinh thần của thần Apollon thơ mộng với thần Dionysos say sưa nữa. Tình thâm đã bị lý trí lạnh lùng đàn áp. Trải qua bao nỗ lực để đưa con người trở về với con người mà triết học cũng chưa lấy được quân bình. Triết học hiện sinh đưa đến tình cảnh “buồn nôn”, “phi lý”, “xa lạ”… của con người. Còn chủ nghĩa duy vật đưa vào chính trường với chủ trương đấu tranh giai cấp thì lại khắc nghiệt nên càng nghẹt thở hơn. Cho mãi đến ngày nay, con người có thật sự tự do, hạnh phúc chưa? Đất nước có thực sự độc lập không? Ngay từ thủ đô Hà Nội, đã có người khởi xướng lời kêu gọi khẩn thiết:
“Ai còn lương tâm và lương tri hãy dũng cảm hành động mạnh mẽ vì đất nước.”
Thật ra có lương tâm, lương tri như tình thế hiện nay cũng rất quý, rất cần thiết; tuy nhiên muốn giải quyết tận gốc rễ phải có triết lý đúng, giải pháp tận căn là phải bắt đầu từ thượng tầng văn hóa. Mặc dầu văn minh phương Tây hấp dẫn với tiến bộ khoa học kỹ thuật, nhưng triết học duy lý đã từ lâu bỏ quên nguyên lý mẹ, ôm lấy có nguyên lý cha là lý trí lạnh lùng, cho nên thiếu tình thâm, thiếu chiều sâu tâm linh là cái làm cho con người thành người. Thật vậy, nếu thiếu tình thâm thì làm sao có Minh triết, bởi vì “tình thâm nhi văn minh”.
Nếu trở về với quan điểm Việt lý để nhận định thì các học thuyết ngoại lai chỉ chạy loanh quanh ở vòng ngoài của bánh chưng hình vuông có góc cạnh dù sắc bén như khoa học kỹ thuật, mà không đi sâu vào vòng trong hình tròn của bánh dày tâm linh thì làm sao con người có chân hạnh phúc? Chỉ có nguyên lý cha như gà trống nuôi con thì đàn con còn nheo nhóc, còn lắm khổ đau. Phải làm sống lại nguyên lý mẹ mới được, bởi vì:
“Con mất cha ăn cơm với cá,
Con mất mẹ liếm lá đầu đường.”
Đề cao nguyên lý mẹ ở đây không có nghĩa là chống lại, phủ định nguyên lý cha, mà chỉ nhằm lập lại quân bình đã mất, vì cả mẹ lẫn cha đều là đối tượng của chữ Hiếu trong Đạo Việt truyền thống:
“Một lòng thờ mẹ, kính cha,
Cho tròn chữ hiếu mới là đạo con.”
Theo Việt lý thì Tiên Rồng là cặp lưỡng hợp, cho nên với Đạo Việt thì mẹ cha đều được quý trọng:
“Có cha, có mẹ thì hơn,
Không cha, không mẹ như đàn đứt dây.”
Mẹ Tiên, cha Rồng và các con hẹn hò, khi hữu sự gặp nhau nơi Tương Dã, cho nên với Việt lý thì tình lý tương dung; âm dương tuy tương khắc, mà cũng tương hợp, chứ không tiêu diệt lẫn nhau. Tinh thần hòa thuận trong truyền thống Đạo Việt muôn đời luôn chảy trong huyết quản những con người cùng chung một bọc của mẹ Âu Cơ:
“Anh em nào phải người xa,
Cùng chung Bác Mẹ một nhà cùng thân.
Yêu nhau như thể tay chân,
Anh em hòa thuận hai thân vui vầy.
Khôn ngoan đối đáp người ngoài,
Gà cùng một mẹ chớ ngoài đá nhau.”
Huyền sử, lịch sử trong dòng sử mệnh của dân tộc vẫn còn đó, những lúc chữ Tương bị quên lãng thì cái họa đã đến như thế nào? Truyện “Hồng Bàng Thị” có viết: “Nhân dân nước Nam khổ về sự phiền nhiễu, không yên ổn như xưa, đêm ngày mong đợi Long Quân về nên mới đem nhau kêu rằng: “Bố ở nơi nào, nên mau về cứu nhân dân.”…
Long Quân ở lâu dưới Thủy Phủ; mẹ con ở một mình, nhớ về Bắc quốc liền đi lên biên cảnh; Hoàng Đế nghe tin lấy làm sợ mới phân binh trấn ngự quan tái; mẹ con không về Bắc được, đêm ngày gọi Long Quân: “Bố ở phương nào làm cho mẹ con ta thương nhớ!”
Đó là cái họa của sự vắng bóng nguyên lý cha, nguyên lý của lý trí sáng suốt, tài thao lược kinh bang tế thế, trị quốc an dân, sức mạnh hùng cường, tiêu diệt Ngư Tinh, Hồ Tinh…cho nên hậu quả là cứ rút lui dần về phương Nam, từ Thái Sơn cho đến Phong Châu. Đành rằng nguyên lý mẹ là cửa ngõ dẫn vào Minh triết tâm linh, nhưng chỉ duy nguyên lý mẹ mà thiếu nguyên lý cha thì từ tình thâm trở thành tình cảm nhẹ dạ, mù quáng chẳng bao xa. Trong truyện Thần Kim Quy, Mỵ Châu với tình cảm thật thà đã bị Trọng Thủy với lý trí xảo quyệt lường gạt mà gây ra cảnh nước mất nhà tan. An Dương Vương cậy có nỏ thần, không phòng bị, nên mới thảm bại nhục nhã, lúc thế cùng lực tận mới lại cầu cứu thần Kim Quy, thần hiện lên nói: “Giặc ngồi sau lưng nhà ngươi đấy!”. Nếu không ý thức được nguyên lý quân bình của Đạo Việt, mà cứ đu đưa giữa hai cực đoan với những thứ chủ thuyết “duy” ngoại lai thì tại họa còn chực chờ, rình rập. Ngày nay sự đu đưa đã quá sa đà về phía duy lý lạnh lùng, vô cảm, vô tình, cho nên đã đánh mất Minh triết Việt. Trong tình trạng như vậy, cho dù khoa học, kỹ thuật có tiến bộ vượt bực ở vòng ngoài, mà thiếu nền tảng tâm linh ở vòng trong, thì con người vẫn còn lao đao, lận đận. Nguyễn Du đã nhận ra điều đó, nên khuyên:
“Sao cho trong ấm, thì ngoài mới êm.”
Nếu thiếu nền tảng tâm linh nhân bản thì trí thức thay vì thăng hoa lên trí tuệ siêu việt, lại sa đọa thành mưu trí xảo quyệt, con người đối xử với nhau chẳng khác nào loài lang sói như Thomas Hobbes (1588-1679) đã nói: “homo homini lupus”, bởi vì không có yếu tố tâm linh của tính thể con người. Đến cuối thế kỷ thứ hai mươi, Tố Hữu tôn vinh sự “giết” như một hành động cách mạng, đạo đức cách mạng, để đạt đến mục tiêu cách mạng:.
“Giết, giết nữa bàn tay không lúc nghỉ,
Cho ruộng đồng lúa tốt thuế mau xong,
Cho Đảng bền lâu cùng rập bước chung lòng.
Thờ Mao Chủ Tịch, thờ Xít- Ta – Lin bất diệt.”
Ngay từ thế kỷ thứ mười lăm, Nguyễn Bỉnh Khiêm (1492- 1587) đã chỉ rõ cái lý do của cảnh “quốc phá gia vong” rồi:
“Trời sinh vật kể dư vàn,
Khinh, trọng ta dù biết mực, than.
Thịt chó, chó ăn, loài chó dại,
Lông chim, chim tiếc, ấy chim khôn.
Bò đàn những bạn cái bò cái,
Cá cả mong ăn con cá con.
Nhà dột bởi đâu nhà dột nóc,
Nếu nhà dột nóc, thế chon von.”
“Nhà dột nóc” tức văn hóa chủ đạo mà rách nát thì vận nước phải rơi vào “thế chon von”.
Giờ đây chủ nghĩa duy vật, văn minh vật chất thống lãnh, toàn trị, cơ khí sinh cơ tâm, cho nên cần phải phục hồi nguyên lý mẹ để lấy lại quân bình.
Trong truyện cổ tích dân gian “Thằng Cuội”, cây đa có khả năng “trị bá bịnh “, “cải tử hoàn sinh”, là biểu tượng Minh triết của nền văn hóa nông nghiệp Thần Nông, nên khắp nẻo đường đất nước, nơi nào có mái đình làng là nơi đó có cây đa với cội rễ dài, vững chắc, đã bao đời chống chọi bão tố che chở mái đình làng nước Việt Nam. Biết Cuội có cây đa quý, bọn cướp chơi ác, giết vợ Cuội, moi ruột vứt xuống sông cho trôi đi mất. Khi Cuội trở về nhà thì vợ đã chết, mớm bao nhiêu lá đa cũng vô hiệu. Cuội đành mượn ruột chó để thay vào, quả nhiên người vợ sống lại, vẫn trẻ đẹp như xưa, nhưng tính tình thay đổi dần, lại hay quên. Cuội cẩn thận căn dặn vợ: “Có đái thì đái bên Tây, chớ đái bên Đông, cây dông lên trời!”. Vợ Cuội lú lẫn, quên lời dặn, đái bậy bên Đông là mệnh của hành Mộc, nên cây đa bay mất. Đó là truyện cổ tích, còn trong thực tế thì có biết bao người phóng uế bừa bãi, không thương tiếc vào nền Minh triết Việt, không biết do vô tình hay cố ý, đều làm lợi cho giặc cướp cả.
Sự kiện lịch sử được xác định rõ ràng trong một không gian, thời gian nhất định, còn sự kiện huyền sử thì lại mông lung, có thể tái diễn bất cứ ở đâu, bất cứ lúc nào. Câu nói của Thần Kim Quy: “Giặc ngồi sau lưng nhà ngươi đấy!” không bao giờ lỗi thời. Thật vậy, không phải chỉ có giặc ngoại xâm không thôi, mà còn có cả giặc từ bên trong nữa như ca dao, tục ngữ trong dân gian đã chỉ rõ ra hành động tác hại của họ:
“Cõng rắn cắn gà nhà.”
“Rước voi giầy mả tổ.”
Ruột người mà thay bằng ruột chó, tâm linh nhân bản mà thay bằng tâm duy vật thì như cái xác không hồn, làm sao không mắc bệnh mất trí, nhìn bạn ra thù, lấy thù làm bạn, làm sao ý thức được bảo vật của Tổ Tiên. Bảo vật đó là Đạo Việt với Việt lý uyên nguyên, là nền Minh triết Việt hiếm có, là nguồn suối, là giếng Việt với dòng nước Cam tuyền vô tận của Tổ Tiên để lại dưới dạng ẩn giấu do hoàn cảnh ngoại xâm, nay như cái giếng bị bỏ hoang phế, con cháu cần phải khai thông để đón nhận nguồn nước Cam tuyền dịu ngọt. Ai có khả năng làm công việc này? Xin thưa là tất cả những ai làm sáng được đức sáng của tính Việt. Người nào cũng có khả tính ấy cả, nhưng tập trung đúng mức và làm thể hiện được khả tính ấy thì rất công phu. Tục ngữ có câu: “một con én không làm nên mùa xuân”, cho nên cần kết hợp một nhóm người có cùng chung hoài bão; mà một nhóm người cũng chưa đủ, cần phải có sự biểu đồng tình của toàn dân, sự chủ động đưa vào quốc sách và trực tiếp bảo trợ của một chính quyền thực sự là của dân, do dân và vì dân. Có được như thế, mới có thể hình thành nổi một nền quốc học cho nước nhà với nền văn hóa vừa có tính nhân bản truyền thống tâm linh, vừa có tính văn minh tiến bộ của khoa học kỹ thuật hiện đại. Nếu nói theo Việt lý thì đó là Triết lý quân bình, rất cân đối, hài hòa giữa hình vuông của bánh chưng, tượng trưng cho Đất và hình tròn của bánh dày, tượng trưng cho Trời, là Minh triết của Lang Liêu, Tiết Liệu trong truyện cổ thời Hùng Vương của nước Văn Lang.
Minh triết của bánh dày, bánh chưng cũng là Minh triết của Hà Đồ – Lạc Thư hợp nhất: Lạc Thư hình vuông, tổng cộng các số độ là 45; Hà Đồ hình tròn, tổng cộng các số độ là 55. Như vậy, tổng số các số độ của Đồ Thư hợp nhất là con số 100, tượng trưng cho Bách Việt.
Bánh dày cũng như Hà Đồ hình tròn, biểu tượng cho Trời, cho thế giới tâm linh, là đạo nội thánh; trong khi bánh chưng cũng như Lạc Thư hình vuông, biểu tượng cho Đất, cho thế giới hiện tượng, là đạo ngoại vương. Có hợp nhất được cả “nội ngoại chi đạo” thì mới thực hiện được Đạo cả.
Cặp hình tượng tròn – vuông chuyển qua cặp cơ số 3-4 hay 3-2 (tham thiên lưỡng địa) của Việt lý có tỉ lệ rất quân bình, là ý nghĩa của chữ Tương trong truyện “Hồng Bàng Thị”, là điều kiện để có Minh triết:
Cơ số 3 Cơ số 2
Nguyên lý mẹ Nguyên lý cha
Âm Dương
Tâm linh Hiện tượng, vật chất
Tình Lý
Nhu Cương
Tiềm ẩn Hiển hiện
… … … .
Còn cặp cơ số hình kim tự tháp 4-1 thì quá chênh lệch. Nếu quá lo về đường tâm linh thì sẽ xao lãng việc đời đưa đến tị thế, quá nặng tình mà kém lý thì dễ trở nên nhẹ dạ, mù quáng; quá nhu sẽ trở nên nhu nhược, quá cương sẽ trở thành tàn bạo, quá duy lý sẽ trở nên cơ tâm, lạnh lùng.
Hình ảnh vuông tròn là biểu tượng của sự hoàn hảo trong Việt lý, cho nên được đúc kết thành câu chúc mừng các bà mẹ lúc sanh đẻ: “Mẹ tròn con vuông”. Hình ảnh này cũng được biểu thị cho tính trường cửu của những vấn đề hệ trong trong cuộc nhân sinh như tình yêu lứa đôi, hôn nhân:
“Trăm năm tính cuộc vuông tròn,
Phải dò cho đến ngọn nguồn, lạch sông.”
(Kiều- Nguyễn Du)
Hình ảnh tròn vuông với cặp cơ số 3-4 còn biến thành 6-8 trong thể thơ lục bát, tạo nên sự hài hòa, cân đối cho thể thơ riêng của văn chương Việt Nam.
Điệu nhạc luân vũ 3-4 nổi tiếng cũng theo nhịp cơ cấu đó, khi khúc nhạc trổi lên thì âm điệu nghe thật du dương, trang trọng; khi khiêu vũ thì uyển chuyển, quý phái. Được như vậy là nhờ ở cặp cơ số rất cân đối, nếu chỉ có những bước chân thẳng tới lui, qua lại vuông vức, cứng nhắc của phái nam, mà thiếu những bước xoay vòng, uyển chuyển của phái nữ thì cuộc khiêu vũ mất hết ý nghĩa, vì vũ cũng như nhạc cốt yếu ở sự hài hòa. Sự hài hòa từ từng cặp nhỏ mở rộng ra toàn thể nhân loại thì sẽ có Thái hòa.
Trong văn hóa truyền thống Việt Nam, với cặp cơ số 3-2 chứng tỏ nguyên lý mẹ vẫn trội hơn, do đó người mẹ Việt Nam rất được quý trọng, và trong thực tế rất xứng đáng với lòng quý trọng đó.
Trong lịch sử, nếu bên phái nam có những vị anh hùng dân tộc chống ngoại xâm, cứu nước thì phái nữ cũng có những anh thư xuất chúng, cho nên tục ngữ mới nói:
“Giặc đến nhà, đàn bà cũng phải đánh.”
Hai Bà Trưng: Năm Giáp Ngọ (34), Hán Quang Vũ phái Tô Định sang làm Thái thú quận Giao Chỉ. Họ Tô tham tàn, hiếu sát nên lòng người oán giận. Thi Sách gởi giác thư đến Tô Định tố cáo tội ác: “Rán mỡ dân để thỏa lòng dục! ”và cảnh cáo: “Nếu không sửa đổi chánh sách cho rộng rãi thì sẽ nguy vong đến nơi.”
Tô Định lợi dụng sơ xuất của Thi Sách, bắt giết ông. Trưng Chắc (Trắc), Trưng Nhì (Nhị) tức thì thay quyền tướng quân tiến đánh thẳng vào Liên Lâu thành và các châu trị. Hai Bà trang sức rất lộng lẫy, tinh thần không vì việc tang tóc mà suy giảm, khiến quân sĩ ngạc nhiên. Hai Bà giải thích rằng lúc này việc nước hệ trọng, không thể vì nỗi đau buồn riêng mà hủy bỏ dung nhan, khiến thần khí kém đi. Trái lại phải phấn khởi quân sắc và y phục rực rỡ để xúc động lòng quân địch. Chúng đã bị xúc động thì sự chiến đấu của chúng cũng bớt hăng hái. Quân khởi nghĩa đều phục Hai Bà cao kiến. Do lòng căm phẫn lâu năm, nhân dân hưởng ứng nhiệt liệt, quân của Hai Bà đi đến đâu cũng như gió lướt cỏ, Tô Định thua to, cùng bộ hạ chạy tháo thân về quận Nam Hải. Hai Bà giành lại được độc lập, xưng vương, đóng đô tại Mê Linh.
Trong Đại Việt Sử Ký, Lê Văn Hưu nhận xét: “Trưng Chắc, Trưng Nhì là đàn bà nổi lên đánh lấy được 65 thành trì, lập quốc xưng vương dễ như trở bàn tay.
Thế mà cuối đời nhà Triệu cho đến đời nhà Ngô hơn một nghìn năm, người mình cứ cúi đầu bó tay làm tôi tớ người Tàu mà không biết xấu hổ với hai người đàn bà họ Trưng!”
Bà Triệu: Bà tên là Triệu Thị Trinh, mồ côi cha mẹ từ thuở nhỏ, nên phải ở với anh là Triệu Quốc Đạt. Bà gặp người chị dâu cay nghiệt. Sự cay nghiệt đó là do Bà Triệu có những tính tình hiên ngang khác hẳn thiên hạ, nên những người đàn bà tầm thường không sao chịu đựng được. Ở cô gái ấy có cả một sự cương cường, một tinh thần bất khuất đáng lẽ nó phải phát xuất ở tâm hồn một đấng nam nhi. Có lẽ vì các dị tính đó mà Bà Triệu đã giết chị dâu để khỏi có sự cản trở trên con đường tranh đấu cho dân cho nước của mình. Không những Bà có chí khí anh hùng, lại có sức mạnh, có mưu lược nên hàng nghìn tráng sĩ xin theo dưới cờ và cùng vào rừng núi để mở cuộc khởi nghĩa. Buổi đầu, Triệu Quốc Đạt không tán thành công cuộc của Bà, nhưng sau Ông chịu theo ý kiến của em. Bà Triệu, trong một cuộc tranh luận với anh, đã để lại trong lịch sử một câu nói khẳng khái bất hủ như sau:
“Tôi muốn cưỡi cơn gió mạnh, đạp đường sóng dữ, chém cá tràng kình ở biển Đông, quét sạch bờ cõi để cứu dân ra khỏi nơi đắm đuối, chứ không thèm bắt chước người đời cúi đầu còng lưng làm tì thiếp cho người ta.” (viết theo Việt Sử Tân Biên- Phạm Văn Sơn)
Trong lãnh vực văn học nước nhà, bên cạnh nam giới, nữ giới cũng có thành tích xuất sắc. Xin kể vài ngôi sao sáng:
Bà Đoàn Thị Điểm (1705- 1748): có công dịch tác phẩm Chinh phụ ngâm bằng chữ Hán của Đặng Trần Côn ra thơ nôm. Bà say mê trong công việc này, vì nỗi lòng người chinh phụ trong tác phẩm giống hệt tâm trạng của Bà khi chồng là Nguyễn Kiều đang đi sứ sang Tàu. Chính tác phẩm diễn nôm này đã đưa tên tuổi của Đoàn Thị Điểm lên tới đỉnh cao của văn đàn cổ điển nước nhà. Ngoài ra, còn có nhiều giai thoại lý thú về Bà:
Một hôm, người anh là Đoàn Doãn Luân thấy em gái đứng tựa cửa sổ soi gương trang điểm, liền ra câu đối:
“Đối kính họa mi, nhất điểm phiên thành lưỡng điểm.”
(Trước kính vẽ mày, một điểm hóa thành hai điểm, cũng có nghĩa là một Thị Điểm hóa thành hai Thị Điểm)
Bà liền đối lại:
“Lâm trì ngoạn nguyệt, chích luân chuyển tác song luân.”
(Ngắm trăng ở ao, một vừng tròn chuyển thành hai vừng, cũng có nghĩa là một Doãn Luân chuyển thành hai Doãn Luân)
Sự tài tình của câu đối trên là sự kiện (vẽ mày, ngắm cảnh) cũng là tên người đối đáp. Ngoài ra, câu đối đáp trên còn phản ảnh từ tiềm thức sâu thẳm tính lưỡng hợp, lưỡng nhất của Triết lý Việt, mà có khi người đối đáp không hề để ý đến: một mà là hai, hai mà là một. Đặc tính này hoàn toàn xa lạ đối với Triết học duy lý, nhị nguyên phương Tây.
Người ta cũng kể lại rằng, có lần sứ thần Thanh triều sang nước ta, dọc đường thấy Đoàn Thị Điểm xinh đẹp giả làm cô bán hàng, hống hách nói bông đùa:
“Nam phương nhất thốn thổ, bất tri kỷ nhân canh.”
(Phương Nam có một tấc đất, không biết bao nhiêu người cày)
Đoàn Thị Điểm liền đáp lại:
“Bắc quốc đại trượng phu, giai do thử đồ xuất.”
(Các bậc đại trượng phu phương Bắc đều bởi đường ấy mà ra)
Sứ thần Tàu không ngờ ở phương Nam có một cô gái bán hàng mà có tài đối đáp nhanh trí như thế, nên hổ thẹn rút lui, không còn dám coi thường, bỡn cợt gái nước Nam nữa.
Bà Huyện Thanh Quan: là hình ảnh của người đàn bà Việt Nam có tư cách cao quý, đoan trang, thanh lịch, sâu sắc biểu lộ qua những bài thơ được xếp vào hàng cổ điển trứ danh trong nền văn học nước nhà. Đó là những bài thơ, mà tình cảm và ý tưởng siêu vượt qua cõi hiện tượng hạn hẹp đi vào vùng nhân bản tâm linh mênh mông, nên mới thật là thơ bất hủ. Nay xin phép trưng ra vài bài:
Qua đèo Ngang:
“Bước tới đèo Ngang bóng xế tà
Cỏ cây chen lá đá chen hoa
Lom khom dưới núi tiều vài chú
Lác đác bên sông chợ (rợ) mấy nhà
Nhớ nước đau lòng con quốc quốc
Thương nhà mỏi miệng cái gia gia
Dừng chân đứng lại: trời non nước
Một mảnh tình riêng ta với ta.”
Đèo Ngang, đã ngang thì có ngăn cản, cách trở, là đặc điểm của cõi đời, cõi hiện tượng biến dịch không ngừng. Đã có biết bao nhiêu người qua cái đèo này rồi, cái đèo trọng yếu của quốc gia như yết hầu của cơ thể mà có mấy ai quan tâm. Vậy mà đã có một người đàn bà khi đặt chân đến nơi có độ cao này đã mở rộng tâm thức, mở rộng tầm nhìn để rồi mở ra con đường Dọc vào cõi tâm linh man mác. Vừa mới “bước tới đèo Ngang” thì “bóng xế tà”, tức là vào buổi hoàng hôn, là lúc tranh tối tranh sáng, lúc giao thời giữa ngày với đêm, chuẩn bị cuộc hôn phối âm dương, Tiên Rồng. Đây là cửa ngõ của Thời- Không, không còn biên giới phân ranh, cho nên tất cả mọi sự, mọi vật như cỏ, cây, đá, hoa… chen lẫn nhau như xóa nhòa sự phân cách dị biệt, như những đối tượng không đối tượng. Rồi quốc trở nên quốc quốc, gia trở nên gia gia cũng như sinh trở nên sinh sinh, là lúc có khả năng sinh hóa cũng như phản phục, quay về với cội nguồn để gặp nhau nơi Tương Dã. “Ta với ta” là cuộc hội ngộ Tiên với Rồng, Lý với Tình, Ý thức với Tiềm thức tâm linh, Xác thân (vật chất) với Linh hồn (tinh thần) tại nơi Thái thất. Nếu không có sự tương phùng đó thì con người cứ đi lang thang mãi như con chim quốc lạc bạn kêu thảm thương giữa trưa hè, cũng như kẻ vô gia cư, vô gia đình, vô tổ quốc, vong thân, vong bản chẳng bao giờ có được hạnh phúc.
Thăng Long hoài cổ:
“Tạo hóa gây chi cuộc hí trường
Đến nay thấm thoắt mấy tinh sương
Lối xưa xe ngựa hồn thu thảo
Ngõ (nền) cũ lâu đài bóng tịch dương
Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt
Nước còn cau mặt với tang thương
Ngàn năm gương cũ soi kim cổ
Cảnh đấy người đây luốn đoạn trường.”
Bài thơ thần tình này cũng gần như huyền thoại, không còn nói lên một tâm trạng, một sự kiện nhất thời nữa, mà trở thành sứ mệnh của một Thăng Long ngàn năm trong lòng mọi người. Những bước thăng trầm của thành Thăng Long cũng chính là những bước thăng trầm cả quốc gia, dân tộc.
Hiện nay tại đất Thăng Long có hai sự kiện tương phản:
Sông Hồng trơ đáy, thuyền tàu mắc cạn. Hiện tượng này, ngoài thiệt hại vật chất trước mắt trong đời sống tại địa phương, còn là một điềm bất lành cho cả đất nước. Người ta tin như vậy, vì ngày xưa khi sông Nghi, sông Lạc cạn thì nhà Hạ mất; khi sông Hạ cạn thì nhà Thương sụp đổ.
Rồng Vàng hiện ra trên bầu trời Hà Nội (20 – 8 – 2009), cả dân chúng thủ đô đều nhìn thấy, bàn tán xôn xao. Hiện tượng kỳ thú hiếm có này khiến cho lý do việc đổi tên thành Đại La ra Thăng Long khi vua Lý Thái Tổ dời đô vào năm 1010 như lịch sử đã ghi là có thật. Đây là điềm lành cho thấy “địa linh nhân kiệt” vẫn còn; Tổ tiên luôn kề cận, phù hộ; bậc hiền tài sẽ ra đời, cứu nước, an dân, trừ gian, diệt bạo. Có thể đây là thông điệp của Bố Lạc Long Quân báo rằng Bố sẽ về, vậy hãy chuẩn bị gặp nhau nơi Tương Dã.
Hồ Xuân Hương:
Khác hẳn với thơ văn của các bà Đoàn Thị Điểm, Huyện Thanh Quan có tính cách khuê các, đoan trang, thơ văn của nữ sĩ Xuân Hương bạo dạn, ranh mãnh, bông đùa, phóng túng, nhưng sắc sảo và đặc biệt đàng sau lời thơ mập mờ láu lỉnh thấp thoáng ý lẳng lơ dục tính.
Hiện tượng Thu Hương báo động cho biết có cái gì bất ổn đến độ đáng lo ngại cần được quan tâm. Trước hết hoàn cảnh xã hội vào thời cuối Lê đầu Nguyễn vô cùng loạn lạc, Hán Nho, Tống Nho độc tôn chuộng hình thức, thiếu chiều sâu nhân bản tâm linh đã mất hết sức sống, cho nên vòng lễ giáo khắc khe bị bung ra, tâm tình con người bấy lâu bị dồn nén, nay tuôn trào như nước vỡ bờ. Những tác phẩm văn thơ tình cảm lãng mạn như: Phan Trần, Mai đình mộng ký, Đoạn trường tân thanh lần lượt ra đời. Hồ Xuân Hương chịu ảnh hưởng của hoàn cảnh xã hội đương thời ấy, đồng thời cũng do hoàn cảnh nội tại là tâm lý của tác giả.
Thật vậy, Xuân Hương là người đàn bà có học, thông minh, mộng ước có chồng là người nho nhã, tài hoa. Nhưng mộng ước không thành, cuộc đời gặp toàn những chuyện không may, không vừa ý, hai lần phải chịu cảnh làm lẽ. Do kinh nghiệm cay đắng của bản thân và tâm lý của một người làm lẽ trong xã hội phong kiến xưa, bà để lại bài thơ “Lấy chồng chung” với lời mỉa mai chua chát:
“Kẻ đắp chăng bông kẻ lạnh lùng,
Chém cha cái kiếp lấy chồng chung!
Năm thì mười họa nên chăng chớ,
Một tháng đôi lần có cũng không.
Cố đấm ăn xôi, xôi lại hẩm,
Cầm bằng làm mướn, mướn, mướn không công.
Thân này ví biết dường này nhỉ,
Thà trước thôi đành ở vậy xong.”
Kể từ khi văn hóa nông nghiệp bị văn minh du mục xâm thực, nguyên lý mẹ bị nguyên lý cha áp chế thì người đàn bà chịu nhiều thiệt thòi đối với đàn ông:
“Trai năm thê bảy thiếp,
Gái chính chuyên một chồng.”
(Ca dao)
Tình trạng bất bình đẳng này được thượng tầng văn hóa là Hán Nho củng cố, duy trì bằng cách ca tụng, đề cao “tam tòng, tứ đức” như đạo hạnh cao quý của người đàn bà.
Sau hai lần làm lẽ, rồi trở thành góa bụa, bà vẫn còn trẻ. Hơn nữa là người có văn tài lại cũng đa tình, cho nên cảnh cô đơn lại càng thấm thía:
“Canh khuya văng vẳng trống canh dồn,
Trơ cái hồng nhan với nước non.”
(Hồng nhan)
Người đàn bà tài hoa son trẻ đó cần cuộc sống đầy ấp tình ái của con người tại thế, chứ không cần danh phong hão, cho nên vẫn có ý mong muốn gặp được một người tình lý tưởng:
“Tài tử văn nhân ai đó tá?
Thân này đâu đã chịu già lom.”
(Tự tình)
Từ đây bà rất thông dong, dạo chơi đây đó, thường giao du với giới thi nhân, trong đó có ông Chiêu Hổ thường cùng bà xướng họa. Bà hoàn toàn thất vọng với những người đàn ông thuộc giới Nho sĩ thi thân, họ chỉ muốn lợi dụng hoàn cảnh đơn chiếc của đàn bà để thỏa mãn dục vọng xấu xa chứ không có tình yêu chân thật. Bọn đàn ông đội lốt Nho sĩ đạo đức giả đã trở thành đối tượng cho những bài thơ trào phúng, châm biếm, chỉ trích:
“Chơi xuân đã biết xuân chăng tá?
Cọc nhổ đi rồi lỗ bỏ không.”
(Đánh đu)
“Chuyến đò nên nghĩa sao không nhớ,
Sang nữa hay là một chuyến thôi.”
(Qua sông phụ sóng)
Thấy rõ tính tham lam, lợi dụng của đàn ông, bà nhắn nhủ họ chớ có ỡm ờ nữa:
“Quân tử có yêu thì đóng cọc,
Xin đừng mắn mó nhựa ra tay.”
(Quả mít)
Trong xã hội phong kiến với nền luân lý khắt khe, người đàn bà có chửa hoang bị xã hội khinh khi thậm tệ. Là người đàn bà bất hạnh, bà thông cảm cho thân phận khách má hồng cũng vì “cả nể cho nên sự dở dang “:
“Cái tội trăm năm chàng chịu cả,
Mảnh tình một khối thiếp xin mang”
(Không chồng mà chửa)
Tình yêu, tình dục, hai yếu tố không thể tách rời trong đời sống hạnh phúc lứa đôi. Bọn ngụy quân tử xé rào, không giữ qui luật quân bình giữa tự do luyến ái và trách nhiệm của Đạo Trung Dung: “Chuyến đò nên nghĩa sao không nhớ”. Thế tại sao dư luận xã hội không vạch mặt chỉ tên bọn đạo đức giả, lường gạt này, mà lại có thành kiến độc ác với những phụ nữ nạn nhân bất hạnh. Chung qui cũng bởi tại Hán Nho lệch lạc quá độ về phía văn minh du mục, xa hẳn cái gốc văn hóa nông nghiệp của Nho nguyên thủy, của Đạo Việt. Bọn hủ Nho, ngụy quân tử chỉ còn biết tham mê tình dục chớ còn biết chi tới tình yêu chân thật với trách nhiệm và ý nghĩa cao cả của tình nghĩa vợ chồng như sách Trung Dung dạy: “Quân tử chi đạo tạo đoan hồ phu phụ”. Hồ Xuân Hương táo bạo lấy ngay những hình ảnh, những đối tương mà bọn đàn ông mê dục nhưng do thành kiến luân lý, đạo đức không ai dám động đến để châm biếm. Có lẽ vì thế, thơ của bà vừa có tính cách trào phúng, châm biếm, vừa có tính cách ỡm ờ, nửa thanh, nửa tục.
Bà Hồ Xuân Hương là một phụ nữ có những nét độc đáo hiếm có, tuy chưa phải là một nhà nữ cách mạng hoàn toàn đúng nghĩa, nhưng bà cũng đã tiên phong đánh lên hồi chuông, đốt lên bó đuốc soi đường cách mạng. Nhưng tiếc thay, giai tầng sĩ phu là hủ Nho mê muội, hùa nhau bịt chuông, dập tắt ngọn đuốc, bởi vì bọn chúng chuyên chuộng hình thức bề ngoài, mà không có chiều sâu tâm linh nên làm sao cảm nhận được thứ âm thanh và ánh sáng huyền diệu đó. Nghĩ cho cùng cũng do Hán Nho là thứ văn hóa nô dịch ngoại lai mà ra.
Phụ nữ Việt trong văn học dân gian:
Người con gái Việt trong văn học bình dân, do ở địa bàn nông thôn, ít có dịp tiếp xúc với văn hóa ngoại lai, nên còn giữ được những đặc tính truyền thống của tính Việt, có khả năng tâm linh mẫn tiệp, tiếp cận với Minh triết, cho nên thường gợi ý nhắc nhở người con trai:
“Thành Hà Nội năm cửa chàng ơi!
Sông Lục Đầu sáu khúc, nước chảy xuôi một dòng
Nước sông Thương bên đục, bên trong
Núi Đức Thánh Tản thắt cỏ bồng mà lại có Thánh sinh.”
“Thành Hà Nội năm cửa” là thiết kế theo cơ cấu Ngũ Hành, Minh triết của Việt Nho. Theo cơ cấu này thì hành Thổ ở trung cung điều hòa, quân bình hóa các hành Kim, Mộc, Thủy, Hỏa. Dân cư ngụ nơi hành Thổ này cũng như ở trong ngôi nhà Thái thất, được an cư lạc nghiệp, hạnh phúc. Ngũ thì đi với Phúc: thọ, phú, khang ninh, du hiếu đức, khảo chung mệnh (sống hết tuổi trời)
“Sông Lục Đầu sáu khúc, nước chảy xuôi một dòng”: Lục thì đi với Cực: đoản triết, tật, ưu, bần, ác, nhược (chết yểu). Nước chảy xuôi một chiều là trái luật tự nhiên của thủy triều lên xuống, trái luật âm dương. Theo độc khối, độc quyền, độc trị, chỉ lo ngăn chận, đắp đê, be bờ mà không lo vét lòng sông để khai thông, cho nên bế tắc và có lúc tức nước vỡ bờ, nếu không thì lòng sông cứ lên cao, nước sông sẽ cạn dần như tình trạng sông Hồng đã nói ở trên. Xưa kia ông Cổn dùng chính sách đắp đê là dừng lại ở bình diện lý trí nhị nguyên vòng ngoài, nhận một, bỏ một, cho nên nói “nước chảy xuôi một dòng”. Ông Vũ đào sông là đi sâu vào tâm linh, nên được Cửu trù, có trí huệ Minh triết thấu tận căn cơ gọi là cách vật, thấy được cái toàn thể.
“Nước sông Thương bên đục, bên trong”: Đây là kết quả của qui luật tự nhiên trong thế giới hiện tượng ba động đưa đến phân cực đối đãi.
“Con sông kia bên lở, bên bồi
Bên lở thì đục, bên bồi thì trong.”
Theo tinh thần của triết lý quân bình thì nên tránh những cực đoan, nếu không thì sự phân ly lại càng lớn:
“Lở kia lở mãi, bên bồi bồi thêm” khiến cho thế quân bình lâm nguy, sự bình đẳng, bình quyền, bình sản không còn nữa, xã hội lâm vào cảnh:
“Kẻ ăn không hết, người lần không ra”.
“Núi Đức Thánh Tản thắt cỏ bồng mà lại có Thánh sinh”: Cao Biền dùng tà thuật trấn yểm, trêu thần núi Tản Viên thì thấy Vương cỡi ngựa trắng đứng trên mây, khạc nhổ mà đi. Cao Biền than rằng:
“Linh khí Nam phương chưa thể trắc lượng được, vương khí đâu khá diệt được, uy linh hiển ứng là thế.” (Truyện Núi Tản Viên – Lĩnh Nam Trích Quái)
Đặc tính của Minh triết Việt là không chỉ chú trọng ở lượng mà quan trọng là ở phẩm, cho nên có những cái trông thấy thường thường mà lại là phi thường, như cô gái quê cấy lúa rất bình dân lại có được tính Việt, còn bọn Nho quan khoa bảng chắc gì có được:
“Người ta đi cấy lấy công,
Tôi đây đi cấy còn trông nhiều bề.
Trông trời, trông nước, trông mây,
Trông mưa, tông gió, trông ngày, trông đêm.
Trông cho chân cứng đá mềm,
Trời trong, bể lặng mới yên tấm lòng.”
Bài ca dao này có đầy đủ các yếu tố Âm Dương: ngày, đêm, cứng, mềm; Tam Tài: trời, đất, người (cô gái đi cấy); Bát Quái: trời, đất, mây, mưa, gió, đá, bể…
Cô gái đi cấy mới thoáng thấy bình thường mà suy gẫm cho kỹ thì lại có phong cách siêu việt, quả thật là cô gái Việt ở đây chứ ở đâu xa: nào là khả năng phi thường “chân cứng đá mềm”, nào là cứu cánh lý tưởng “trời trong, bể lặng”, tức là lý tưởng thái bình, thái hòa.
Quẻ Ly tượng trưng cho đàn ông con trai, gồm hai hào dương bên ngoài, hào âm bên trong. Trong khi quẻ Khảm tượng trưng cho đàn bà con gái, gồm hai hào âm bên ngoài, hào dương bên trong, cho nên dễ bắt ánh sáng Minh triết hơn đàn ông con trai. Lý ưu thế ở vòng ngoài, còn tình ở vòng trong thuộc về tâm linh và khi “tình thâm” thì “văn minh”. Chính vì thế, con gái trong văn học dân gian không bao giờ bị lấn áp, luôn luôn sánh vai với con trai trong các cuộc sinh hoạt văn hóa như hội lễ, ca hát quan họ, trống quân… và còn hơn thế nữa, con gái có đủ tư cách để khuyên nhủ, khuyến khích bọn con trai nên nghiên cứu học hỏi Đạo lý nho nhã uyên nguyên của Tổ Tiên để trở thành người tài đức vẹn toàn, là lớp người mà Tổ Quốc thật sự cần đến, mới xứng đáng là những người tình lý tưởng của các cô gái Việt:
“Đèn Sài Gòn ngọn xanh, ngọn đỏ,
Đèn Mỹ Tho ngọn tỏ, ngọn lu.
Anh về anh học chữ Nhu,
Mấy trăng em cũng đợi, mấy thu em cũng chờ.”
Chức năng giáo dục con cái của phụ nữ:
Trong “Bình Ngô đại cáo” Nguyễn Trãi (1380-1442) có viết về sự khó khăn vào thời kháng Minh như sau: “Tuấn kiệt như sao buổi sớm, nhân tài như lá mùa thu.” Như vậy, nguyên do ở đâu? Xin thưa ngay là do văn hóa nô dịch bao đời hết Hán rồi lại Đường, Tống, Minh lần lượt mang sang làm tê liệt tính Việt cho chính sách đồng hóa trường kỳ của đế quốc.
Chỉ những ai còn duy trì và phát huy được tính Việt mới có khả năng thâu hóa sáng tạo tinh hoa Nho nguyên thủy mà trở thành nhân tài thực sự có ích lợi cho Tổ Quốc.
Sau chiến tranh, Nguyễn Trãi muốn góp công chấn chỉnh nền luân lý, đạo đức ngay từ trong triếu đình như đề cao nhân nghĩa, chủ trương đời loạn dùng võ, thời bình dùng văn, dạy những đức tính cần thiết cho hoàng tử để xứng đáng nối nghiệp lãnh đạo muôn dân, chống xa hoa, phung phí làm khổ dân… Nhưng việc bất thành như ý, vì bọn nịnh thần cấu kết lộng hành, hậu quả tất nhiên của văn hóa nô dịch vốn chủ trương đào tạo ra đội ngũ vong nô, sát hại kẻ hiền thần, làm tàn hại đất nước. Để bổ túc khuyết điểm này, Nguyễn Trãi làm ra “Gia huấn ca” để hướng dẫn, khuyến khích giáo dục gia đình, mà trong đó người mẹ có vai trò rất quan trọng:
“Lạ gì con có giống ai,
Phúc đức tại mẫu là lời thế gian.”
Đó là lẽ tất nhiên của luật ảnh hưởng, luật gần xa:
“Gần mực đen, gần đèn thì sáng
Ở bầu tròn, ở ống thì dài.”
Các bà mẹ Việt nào cũng thường ru con bằng những lời ca dao hay kể chuyện cổ tích, huyền thoại của dân tộc cho con trẻ nghe trước khi vào giấc ngủ. Ca dao, chuyện cổ tích, huyền thoại là những dòng sửa mẹ ngọt ngào nuôi dưỡng dòng sống tâm linh, tiềm thức cộng thông của dân tộc. Dòng sống này chảy ngầm bên dưới lớp ý thức nên khó phát giác, nó thường hiện ra trong giấc mơ, nhất là ở thời niên thiếu. Bài ca “Tuổi thơ” của Nguyễn Văn Thương có câu mà lúc nhỏ tôi rất thích: “và về đêm nằm ngủ mơ thấy tiên”. Tiên đâu có ở xa ta, tiên là mẹ của tôi, mẹ của anh, mẹ của chị, mẹ của các em, mà xuôi lên đến tận nguồn là mẹ Tiên Âu Cơ với bọc trăm trứng trong huyền sử.
Như đã nói, phụ nữ bên ngoài âm, nhưng bên trong lại dương, cho nên rất nhạy bén trong việc nắm bắt ánh sáng Minh triết. Có lẽ vì thế mà các bà mẹ thường dạy con bằng tình thương, bằng cách thể nghiệm cả tâm thân, bằng những tấm gương hơn là chỉ bằng lý lẽ. Lý lẽ, lý trí dầu có hoàn hảo đến đâu cũng chạy loanh quanh ở hình vuông vòng ngoài, mà đã là hình vuông thì có bốn góc cạnh phân biệt, còn tình thâm thì mọc rễ vào tận tiềm thức tâm linh sâu thẳm ở dạng vòng tròn hoàn hảo vô biên.
Vài ba mẩu chuyện:
Chuyện Tăng sâm giết người ở sách “Cổ học tinh hoa” của Ôn Như và Từ An sưu tập ghi như sau: “Ông Tăng Sâm ở đất Phi. Ở đấy có kẻ trùng danh với ông giết chết người.
Một người hớt hải chạy đến báo mẹ ông Tăng Sâm rằng: “Tăng Sâm giết người”. Bà mẹ nói: “Chẳng khi nào con ta lại giết người”. Rồi bà điềm nhiên ngồi dệt cửi.
Một lúc, lại có người đến bảo: “Tăng Sâm giết người”. Bà mẹ không nói gì, cứ điềm nhiên ngồi dệt cửi.
Một lúc nữa lại có người đến bảo: “Tăng Sâm giết người”. Bà mẹ sợ cuống, quăng thoi, trèo qua tường chạy trốn.” (Quốc sách)”
Cho hay cái tác dụng ghê gớm của sự tuyên truyền rỉ tai. Không ai hiểu con bằng các bà mẹ, vậy mà mẹ của ông Tăng Sâm còn bị lung lạc, cho nên các bà mẹ nên luôn thận trọng.
Chuyện Lạc Long Quân diệt Hồ Tinh ở Lĩnh Nam Trích Quái cũng có ghi: “Lúc bấy giờ ở dưới chân núi Tản Viên có người Mán gác cây, kết cỏ làm nhà ở. Trên núi có vị thần được mọi người thờ phượng. Thần dạy mọi người làm ruộng, dệt vải, may áo trắng mà mặc, cho nên gọi là Bạch Y Man. Hồ chín đuôi hóa ra người áo trắng nhập vào giữa đám dân Mán, cùng ca hát, rồi khi dụ dỗ được con trai, con gái nào thì đem về nhốt ở hang đá, mọi người lấy làm khổ…” Chuyện này khiến liên tưởng đến chuyện những người tù trong hang của Platon, chỉ thấy bóng chập chờn trên vách đá. Các bà mẹ lấy làm khổ, vì lo sợ con mình bị nhồi nhét những tà thuyết ngoại lai, trở thành vong thân, vong bản, không còn nhận ra” bản lai diện mục” của mình.
Chuyện mẹ hiền dạy con: “Thầy Mạnh Tử, thuở nhỏ, nhà ở gần nghĩa địa, thấy người ta đào, chôn, lăn khóc, về nhà cũng bắt chước đào, chôn, lăn, khóc. Bà mẹ thấy thế nói: “Chỗ nầy không phải chỗ con ta ở được”. Rồi dọn nhà ra gần chợ.
Thầy Mạnh Tử ở gần chợ, thấy người buôn bán điên đảo, về nhà cũng bắt chước nô nghịch cách buôn bán điên đảo. Bà mẹ thấy thế lại nói: “Chỗ này cũng không phải chỗ con ta ở được” bèn dọn nhà đến ở cạnh trường học.
Thầy Mạnh Tử ở gần trường học, thấy trẻ đua nhau học tập lễ phép, cắp sách vở, về nhà cũng bắt chước học tập lễ phép, cắp sách vở. Bấy giờ bà mẹ mới vui lòng nói: “Chỗ này là chỗ con ta ở được đây”.
Một hôm, thầy Mạnh Tử thấy nhà hàng xóm giết lợn, về hỏi mẹ: “Người ta giết lợn làm gì thế?”
Bà mẹ nói đùa: “Để cho con ăn đấy”. Nói xong bà nghĩ lại, hối rằng: “Ta nói lỡ mồm rồi. Con ta thơ ấu, trí thức mới mở mang mà ta nói dối nó, thì chẳng ra ta dạy nó nói dối hay sao?”
Rồi bà đi mua thịt lợn, đem về cho con ăn thật.
Lại một hôm thầy Mạnh Tử đang đi học, bỏ học về nhà chơi. Bà mẹ đang ngồi dệt cửi, trông thấy, liền cầm dao cắt đứt tấm vải đang dệt trên khung, mà nói rằng: “Con đang đi học, mà bỏ học, thì cũng như ta đang dệt tấm vải này mà cắt đứt đi vậy”. Từ hôm đó, thầy Mạnh học tập rất chuyên cần. Rồi về sau thành một bậc đại hiền. Thế chẳng là nhờ có cái công giáo dục quí báu của bà mẹ hay sao?” (Liệt nữ truyện)”
Người ta cũng có kể về tấm gương giáo dục của mẹ ngài Cưu La Thập. Ý nguyện của mẹ ngài là mong sao cho ngài đạt được hạnh Bồ Tát để truyền bá chánh pháp Đại Thừa cứu độ chúng sinh. Muốn cho ước nguyện thành tựu, bà quan niệm rằng người mẹ trước hết phải tu tập chứng ngộ để nêu gương và bà đã được như ý.
Qua mấy mẩu chuyện gương xưa, chúng ta thấy vai trò của người mẹ vô cùng quan trọng trong việc giáo dục con cái. Quả thật đúng như những nhận định sâu sắc của “Gia huấn ca”:
“Lạ gì con có giống ai,
Phúc đức tại mẫu là lời thế gian.”
và qui luật ảnh hưởng gần xa rất phổ biến:
“Gần mực đen, gần đèn thì sáng,
Ở bầu tròn, ở ống thì dài.”
Trẻ con mà ở gần người buôn bán điên đảo, cũng bắt chước bày trò chơi buôn bán điên đảo. Lâu ngày, trò điên đảo nhập tâm không hay biết, phát triển không lường, lớn lên có thể lừa đảo bán cả nhà, đất hương quả của Tổ Tiên, rồi cũng có lúc bán đứng luôn cả dân, cả nước không chừng.
Bà mẹ của Mạnh Tử chỉ vì nói đùa với con mà phải vội sửa ngay, chứ còn như cố tình dạy con nói dối, xem như “cứu cánh biện minh phương tiện” đời sau này thì hậu quả sẽ không lường được, bao thế hệ sẽ chạy theo lề thói nói láo thì còn chi là văn hóa.
Viết bài tiểu luận với đề tài phụ nữ Việt không có nghĩa là chỉ đề cao nguyên lý mẹ, phủ nhận nguyên lý cha, mà chỉ muốn phục hồi nguyên lý mẹ khi các chủ thuyết ngoại lai mang tính văn hóa du mục với cặp cơ số 4-1, quá nghiêng về nguyên lý cha với duy lý lạnh lùng, bạo lực thô bạo, làm mất quân bình trầm trọng, khiến cho con người điêu đứng, không có hạnh phúc.
Thực ra, theo truyền thống Đạo Việt thì cả hai nguyên lý mẹ – cha hòa hợp, mẹ Âu Cơ- cha Long Quân và các con hẹn hò, gặp nhau nơi Tương Dã. Đạo Việt cũng còn thể hiện qua tương quan bánh dày- bánh chưng, vuông- tròn với cặp cơ số cân đối 3-4 hay 3-2. Như vậy, tinh thần của Việt lý là lưỡng hợp, chứ không phải nhị nguyên, chọn nguyên lý mẹ bỏ nguyên lý cha, hay ngược lại.
Nguyễn Văn Nhiệm
anviettoancau
Tranh minh họa: Von Viet.