282. Các vua Hùng với ý thức Quốc gia, Dân tộc

Bài 1

Hàng năm, đến ngày mồng 10 tháng 3, nhân dân Việt Nam trước đây từ cấp lãnh đạo cho đến nông dân các cấp xã hội, kéo nhau đến trước đền thờ vua Hùng trên núi Nghĩa lĩnh tỉnh Phú thọ làm lễ Quốc tế, nơi cố đô Phong Châu của nòi giống Việt. Đấy thật là một vị trí hùng vĩ của giang sơn khi mới mở, phía đông là núi Tam Đảo, phía nam là núi Tản Viên, ở giữa nhìn xuống hai giòng Lô giang và Thao giang, gặp nhau ở Bạch Hạc.

Giữa đền trên, một bức hoành phi với bốn chữ đại tự VIỆT NAM TRIỆU TỔ (Việt Nam thuỷ tổ dựng nước).

Trên bàn thờ có mười ba chữ bài vị: ĐỘT NGỘT CAO SƠN CỔ VIỆT HÙNG THỊ THẬP BÁT THÁNH VƯƠNG VỊ: Vòi vọi núi cao họ Hùng nước Việt xưa 18 bài vị vua thánh. Thật là phong cảnh vĩ đại, dấu địa linh con Lạc cháu Hồng.

“Mấy tầng vây bọc, chọc trời muôn trượng lâu đài.
Bốn vách điểm tô, khắp đất một bầu phong nguyệt”.

Quốc sử diễn ca rằng:

“Kể từ trời mở Viêm bang,
Sử đầu có họ Hồng Bàng mới ra.
Cháu đời Viêm Đế thứ ba,
Nối dòng hỏa đức gọi là Đế Minh.
Quan phong khi giá Nam hành,
Hay đâu Mai Lĩnh duyên sinh Lam kiều,
Vụ Tiên vừa thủa đào yêu,
Xe loan nối gót tơ điều kết duyên.
Dòng thần sánh với người Tiên.
Tinh anh nhóm lại thánh hiền nối ra. ”

Đấy là tín ngưỡng nòi giống Rồng Tiên của dân tộc Việt trải bốn ngàn năm một nước “Văn hiến chi bang”. Chúng ta không biết Việt Nam là một nước Văn hiến kể từ bao giờ, chỉ biết trên đất Giao Chỉ gồm Quảng Đông, Bắc Việt và phía bắc Trung Việt ngày nay vốn là nơi gặp gỡ của hai chủng tộc, một thuộc về văn minh Đông Sơn mà di tích tiêu biểu trống đồng hiện thấy rải rác từ phía nam Dương Tử cho đến Nam Dương quần đảo, và một thuộc về văn minh Lạch Trường mà di tích tiêu biểu là Cổ mộ thiên động rải rác từ Tứ Xuyên xuống đến Thanh Hóa. Có lẽ vì sự gặp gỡ hai chủng tộc thuộc hai tinh thần văn hóa, một chủng tộc từ lục địa phương Bắc xuống với một chủng tộc từ hải đảo phương Nam lên, cho nên dân Việt ta đã lý tưởng hóa thành dòng dõi Rồng Tiên. Nhưng đấy là tín ngưỡng truyền thống dân tộc và đã là tín ngưỡng thì nó có một giá trị thiêng liêng ở đức tin tập thể.

Một hôm, học trò Khổng Tử là Tử Cống hỏi thầy về chính trị phải làm thế nào? Khổng Tử đáp: “Phải đủ ăn cho dân, phải đủ binh để bảo vệ cho nước, phải cho dân tín ngưỡng”.

Tử Cống lại hỏi: “Nếu bất đắc dĩ mà phải bỏ một trong ba điều kiện: thực, binh và tín thì nên bỏ cái nào trước”?

Khổng Tử đáp: “Nên bỏ binh đi trước!”

Tử Cống lại hỏi: “Nếu bất đắc dĩ trong hai điều kiện còn lại là thực và tín thì nên bỏ điều gì trước?”

Khổng Tử đáp: “Bỏ sự ăn đi, bỏ ăn mà chết thì xưa nay người ta vẫn chết, nhưng nhân dân mất tín ngưỡng thì không tự lập được”. (Luận ngữ)

Đấy là tín ngưỡng đối với chánh trị của một dân tộc trọng đại là nhường nào. Nguyễn Trãi am hiểu cái sức mạnh ấy lắm đối với nhân dân nên đã cảnh cáo Lê Lợi: “Dân như nước, có thể chở được thuyền có thể đánh đắm thuyền”. “Dân như thuỷ, năng tái chu, năng phúc chu”. Đấy là do sức mạnh của tín ngưỡng cho nên dân ngu mới có sức mạnh như thần lực. Và Swami Vivekananda trong bài nói về sự thiết yếu của tín ngưỡng tôn giáo đã tuyên bố:

“Trong tất cả các sức mạnh đã hành động và còn đang hành động để uốn nắn vận mệnh của loài người, thì hẳn rằng không một sức mạnh nào mạnh hơn là cái sức biểu hiện ra gọi là tín ngưỡng tôn giáo. Tất cả những tổ chức xã hội đều xây dựng trên nền tảng của cái sức mạnh đặc biệt ấy, và cái động cơ cấu kết vĩ đại nhất giữa các phần tử nhân loại với nhau cũng do cái năng lực tôn giáo tạo ra cả. Một điều rất hiển nhiên cho tất cả chúng ta là ở rất nhiều trường hợp sự đoàn kết của tôn giáo đã chứng minh mạnh hơn cả sự đoàn kết của chủng tộc hay thuỷ thổ, mạnh hơn cả thân tộc nữa. Ai cũng biết rằng những người cùng tôn thờ một Thượng Đế, tín ngưỡng cùng một tôn giáo, đoàn kết với nhau chặt chẽ và bền bỉ hơn cả những người cùng một họ, hơn cả anh em ruột nữa”. (Lectures on Jnana Yoga by Swami Vivekananda)

Sự thực trong lịch sử thế giới từ xưa đến nay, từ Đông chí Tây chúng ta thấy biết bao nhiêu đế quốc xây dựng trên sức mạnh của võ lực, của kinh tế, hay của pháp chế hết sức vĩ đại như đế quốc La Mã, đế quốc Tần Thuỷ Hoàng, đế quốc Mông Cổ chẳng mấy chốc đã sớm tiêu tan so với các đạo thống của Phật giáo, của Thiên Chúa giáo, của Khổng giáo, của Ấn Độ giáo, của Hồi giáo. Cho hay sức mạnh của tín ngưỡng là một liên hệ đoàn thể thống nhất bền bỉ, thâm sâu và bền bĩ hơn cả liên hệ kinh tế, chính trị hay là binh bị, gọi chung là pháp thống vậy.

Sở dĩ dân tộc Việt Nam chúng ta, sau sự thất bại của Trưng Nữ Vương với đế quốc nhà Hán phương Bắc trải suốt hơn một ngàn năm Bắc thuộc mà không bị đồng hóa là nhờ có cái tín ngưỡng dân tộc kiên cố bền bỉ vào Tổ quốc. Đấy là đạo thống của Việt tộc, tín ngưỡng vào cái Hồn chung của đoàn thể tức là Hồn nước, Quốc tuý, Quốc hồn vậy.

Chứa chan máu quốc, nước vẩn vơ hồn.
(Phan Bội Châu)

Vậy hồn nước là gì?

Theo Nhân loại học về lịch sử, tâm lý xã hội hiện đại thì ở thời tiền sử, kỹ thuật chưa có loài người sinh sống theo sông ngoài để bát cá hay là vào rừng núi để rình mồi. Đấy là thời ăn lông ở lỗ, ăn sống nuốt tươi, ý thức chưa phát triển, chắc hẳn bấy giờ chưa có cái chi gọi là Hồn nước. Xã hội là xã hội mẫu hệ mà cổ sử Tàu gọi là thời kỳ “tri mẫu bất tri phụ, dã xử huyệt cứ” (Hàn Phi Tử). Xã hội ấy là xã hội cộng sản nguyên thuỷ, chưa có phân công còn sống chung đụng. Nhưng cái đoàn thể ấy sớm ý thức cái liên hệ của mình để phân biệt với đoàn thể mẫu hệ khác vì cái lệ “dị tộc hôn nhân” (exogamie) và mỗi đoàn thể tôn sùng một vật tổ (totem) khác nhau, như Rồng, Tiên, Mặt trời, Gà trống v. v… Giữa Vật tổ với các phần tử người trong đoàn thể phảng phất một mối quan hệ thần bí như nhà xã hội học Pháp đã nhận thấy: “Nếu Vật tổ là con sói thì tất cả các phần tử của một bộ lạc đều tin rằng tổ tiên mình là sói và đều có tính tình của loài sói. Cho nên họ ứng dụng vào chính bản thân họ cái tên là ‘Bộ lạc Sói’”.

Vậy một bộ lạc là một Lang như người trên thượng du Bắc Việt, và một Lang là một xã hội gia tộc, một đại gia đình, trong đó tất cả phần tử tự coi nhau như là bà con thân thuộc với nhau, đồng bào, đồng chủng:

Bầu ơi thương lấy bí cùng
Tuy rằng khác giống nhưng chung một giàn.

Tình đồng bào ấy thật ra không phải cùng một huyết thống cha mẹ đẻ ra mà là cái mối quan hệ có tính chất thần bí tín ngưỡng, chính cái tín ngưỡng Vật tổ, vì ở các dân tộc bán khai xa cách nhau hết sức mà cũng có tính chất giống nhau tương tự với nhau. Phải chăng đấy là nguyên lai đầu tiên của tôn giáo mà Vật tổ là biểu tượng cho Tổ quốc? Theo nhà xã hội học Durkheim thì trong xã hội mẫu hệ thờ chung một Vật tổ có những giới điều cấm đoán rất nghiêm như cấm đoán loạn luân chẳng hạn. Sở dĩ người ta lấy hệ thống của Mẹ là vì người đàn ông khi lấy vợ phải đến ở nhà vợ cho nên cái vật linh của đoàn thể chỉ truyền lại cho con cháu theo mẫu hệ. Trong một gia tộc Vật linh ấy, không phải người Mẹ cầm quyền mà quyền bính lại thuộc về toàn thể gia tộc, có chủ quyền về tài sản công cộng. Như thế thì ở xã hội gia tộc Vật tổ ấy người ta đã có một ý thức tập thể, một cái hồn chung cho cả đoàn thể, có tính cách thần bí thiêng liêng, choán mất hết cả ý thức cá nhân. Cái Hồn chung ấy là lý tưởng, là lẽ sống của mọi phần tử trong một đoàn thể. Đây là nguyên lai ý niệm Tổ quốc vì Vật tổ là Tổ tiên thần bí của đoàn thể vậy. Trước khi các bộ tộc tìm định cư vào một lãnh thổ nhất định, hay còn du mục, lang thang nay đây mai đó thì cái ý thức Vật tổ đã có rồi. Vật cơ bản thống nhất xã hội riêng biệt khởi kỳ thuỷ thuộc về loại tín ngưỡng tinh thần chứ không phải cơ bản lãnh thổ địa lý. Đấy là Hồn nước, đấy là Tổ quốc.

Cái quan niệm một dân tộc là một linh hồn trên đây chính là tín ngưỡng truyền thống của nhân dân Việt Nam vào Tổ quốc, vào Hồn nước như cụ Phan Bội Châu đã kêu gọi:

“Thương ơi! Công nghiệp tổ tông,
Nước tanh máu chảy, non chồng thịt cao.
Non nước ấy biết bao máu mủ,
Nở nào đem nuôi lũ sài lang,
Cờ ba sắc xứ Đông Dương,
Trông càng thêm nhục nói càng thêm đau.
Nhục vì nước mà đau người trước,
Nông nỗi này non nước cũng oan.
Hôn ơi, về với giang san”.
(Ái quốc ca – Phan Bội Châu)

Và Lê Thái Tổ sau mười năm đánh đuổi quân Minh, khôi phục giang san cũng dâng cống lên Tổ quốc như một linh hồn:

“Vật gốc tự Trời, người gốc tự Tổ, ví như cây có gốc nước có nguồn. Gốc tốt thì lá tươi, nguồn sâu thì dòng dài. Nếu không nhờ ân nhân của Tiên Tổ bồi đắp sâu dầy, phúc đức kết tinh lớn lao thì đâu được thế”.

“Ta gặp buổi nhiễu nhương hoạn nạn, mở nước dựng nền càng khó khăn. May Trời tựa dân theo, làm nên công nghiệp thực do Tổ tông tích đức luỹ nhân thì mới tới được” (Lam Sơn thực lục).

Người Việt tin rằng Tiên Tổ của mình khác với người Tàu, thuộc nòi giống Bách Việt ở phía nam Lục địa Trung Hoa như chính sử gia Tàu Lã Sĩ Bằng gần đây đã nhận định rằng:

“Ông Aurousseau ở Bác Cổ học viện đã suy đoán dân tộc Việt Nam nguyên xuất phát từ nhóm Bách Việt. Thuyết ấy rất chính xác. Gần đây những sự nghiên cứu và phát hiện về các phương diện khảo cổ học, nhân loại học, ngữ học, dân tộc học, đủ chứng minh cho thuyết ấy.

Trong nhóm Bách Việt, một ngành đi xuống phương Nam, khiến cho dân tộc ấy trở nên một dân tộc có thể bảo tồn được chủng tính nguyên thuỷ, chưa hóa thành di dân bị Hán tộc đồng hóa, do điều kiện thuận tiện của địa lý. Cho nên trong khoảng bốn năm từ 221 đến 214 trước công nguyên nó có thể chống cự với quân nhà Tần. Từ Hán Vũ Đế diệt họ Triệu (III tr. cn) về sau, Việt Nam tuy thuộc vào Trung Hoa hơn một ngàn năm, thấm nhuần văn hóa Hán tộc nhưng không bị đồng hóa và thu hút, kết cục vào thế kỷ X nó đã thoát ly khỏi Trung Hoa, đứng độc lập. Còn như Âu Việt phía Đông, Mãn Việt, Triều và các chi Việt tộc khác từ thời nhà Hán đến nay đã bị hút vào trung tâm Hán tộc để bị đồng hóa mà trở nên dân Tàu ở các tỉnh Triết, Mãn Việt, Quế ngày nay vậy” (Đông Nam Á nghiên cứu, t. 3).

Sở dĩ Việt Nam là ngành Việt tộc cuối cùng không bị như các chi ngành khác sát nhập vào Trung Quốc để bảo tồn lấy dân tộc tính cho tới ngày nay chính là nhờ ở cái sức mạnh mẽ của tín ngưỡng Địa linh, Nhân kiệt, tức là Hồn nước, vì trong cái tín ngưỡng cổ truyền Việt Nam là di tích Cổ mộ ở Lạch Trường đã xác chứng tín ngưỡng Tổ tiên với tín ngưỡng thiên nhiên hợp làm một ở Thiên động, người chết quàng trong hang động. Và ngược dòng lịch sử cái Hồn nước Việt tộc bắt đầu từ Hùng Vương dòng dõi Tiên Rồng, như nhà ái quốc Phan Bội Châu đã khóc nhà ái quốc Phan Châu Trinh…

“Đấu Địa linh con Lạc cháu Hồng, người sao trước có sau không, kinh sấm sét hỡi đau lòng hậu bối!”

Sử chép:

“Một hôm Lạc Long Quân bảo với Âu Cơ rằng: “Ta là loài Rồng, nàng là loài Tiên, thủy hỏa tương khắc khó chung sống với nhau được”. Vợ chồng từ đấy phân ly, chia con làm đôi năm mươi con theo mẹ về núi năm mươi con theo cha xuống bể, cắt con trưởng làm vua Hùng nối ngôi, đặt quốc hiệu là Văn Lang đóng đô ở Phong Châu nay là Bạch Hạc truyền mười tám đời đều gọi là Hùng Vương”.

Từ đấy nàng ở lại phương Bắc với đàn con, chàng đi xuống phương Nam với đàn con. Ở bộ lạc du mục thì còn nhiều tính chất của xã hội cộng sản nguyên thuỷ. Đến khi chuyển sang định cư ở đồng bằng Bắc Việt ngày nay theo chế độ nông nghiệp, thì Lang biến thành Làng, tinh thần bái vật biến dần sang tín ngưỡng Tổ tiên, Vật tổ biến thành Tổ quốc lấy sơn hà xã tắc làm cơ sở, chế độ phụ hệ thay thế cho chế độ mẫu hệ để thích ứng với điều kiện kinh tế sinh hoạt mới từ thiên hạ vì công “biên sang” thiên hạ vì gia “cần phải có thừa tự cha truyền con nối”.

Trong khi ấy thì Hán tộc ở phía Bắc tại lưu vực Hoàng hà đã dựng cơ nghiệp xong đang sửa soạn bành trướng xuống phương Nam… vì luôn luôn bị Bắc địch xâm lăng, Hán tộc mới ngó xuống miền Nam sông Dương tử của dân Bách Việt, sách “Giao Châu Vực ký” là sách sử cổ nhất Trung Hoa có viết:

“Đời xưa, khi nước Giao Chỉ chưa chia làm quận, huyện, nghĩa là chưa bị Hán tộc đô hộ, thì lãnh thổ chia ra thành những cánh đồng gọi là Lạc điền. Trong những cánh đồng ấy, nước lên xuống theo thuỷ triều, dân cư cầy bừa những ruộng ấy để sinh nhai”.

Giáo sư Maspero trường Viễn Đông bác cổ kết luận về nước Văn Lang của giống Lạc Hồng: “Xã hội có trật tự trên dưới và phong kiến tương tự với dân Thái, dân Mường ở miền Đà giang và các vùng giáp giới Bắc Việt với Ai Lao ngày nay.

Người Bắc Việt bình dân không hay di chuyển và lập thành các đoàn thể nhỏ gồm các làng đặt dưới quyền cai trị của Lạc tướng thể lập. Những Lạc tướng giữ quyền tôn giáo, chính trị và binh bị.

Về phương diện vật chất thì cũng khá tiến bộ. Dân ở Bắc Việt xưa kia cày ruộng không dùng cày và trâu mà dùng cuốc bằng đá chuốt.

Họ đã biết cấy một năm hai mùa, và nếu thật họ biết lợi dụng được mực nước sông lên xuống để cho nước vào ruộng, thì họ cũng đã là những nhà nông giỏi. Còn về binh khí họ có những chiếc cung lớn độ vài thước cao để dùng bắn những mũi tên có tẩm thuốc độc, họ đã biết đúc đồng để làm mũi tên.

Họ hay ưa vẽ mình, búi tóc đàng sau gáy và chít khăn cũng như bây giờ con cháu họ còn theo. Tuy rằng Triệu Đà gọi nước họ là “nước của dân lõa lồ” nhưng không nên hiểu theo nghĩa đen của lời ấy. ”

Xem như thế thì những truyện cổ tích thần thoại Việt Nam không hẳn là hoang đường mà còn hàm xúc ý nghĩa sâu rộng thâm trầm linh động, phản chiếu cái tiềm thức tập thể của dân tộc từ ngàn xưa về đời Hùng vậy. Đấy là ý nghĩa dân chủ và lõa lồ của Chử Đồng Tử, ngụ cả một triết lý hay tôn giáo thiên nhiên hay tự nhiên:

“Lõa lồ cam phận khố nhường cha.
No ấm tuỳ may chẳng quản mà,
Bến nước một cần buông có lúc,
Giang san riêng một bãi phù sa.
Thuyền tiên đôi lứa duyên tiền định,
Đạo Phật viên thành thắng nghiệp qua.
Đạo Tổ trời Nam Đồng Tử trước,
Thông thần một niệm Đạo không xa”.
(Hội Châu Biên)

Nhưng phản chiếu đầy đủ và trung thực cái tiềm thức xã hội nông nghiệp Việt Nam hơn hết là truyện cổ “Bánh chưng bánh dầy” một cặp bánh hình vuông, hình tròn dâng cúng Tổ tiên ngày Tết đầu năm Âm lịch. Đấy còn ngụ cả một ý thức hệ luân lý chính trị của dân tộc nông nghiệp thời tối cổ lấy Hùng vương làm khởi thuỷ, tượng trưng cho Quốc hồn, Quốc tuý vậy.

Trước hết cái ý thức hệ ấy bắt đầu bằng cái ý nghĩa thiêng liêng của ba ngày Tết còn chi phối tư tưởng và hành động của chúng ta, người Việt từ Bắc chí Nam, từ nông thôn đến đô thị mãi tới nay chưa chút phai mờ, đúng như câu nói trứ danh của Tây phương: “Les traditions des morts pèsent d’un poids sur le cerveau des vivants” nghĩa là “truyền thống của người chết đè nặng trên đầu người sống”.

Vua Hùng muốn chọn người thay thế mình để lãnh đạo quốc gia dân tộc mới gọi con cháu lại bảo: “Năm hết Tết đến phải nhớ sắm sửa lễ vật để cúng Tổ tiên”. Lời dạy ấy rất tự nhiên vì làm người ai mà chẳng có cái lương tâm biết ơn tiền nhân, trước hết là nhớ ơn người thân yêu đã quá cố, nhờ công sinh thành dưỡng dục của cha mẹ:

Công cha như núi Thái Sơn,
Nghĩa mẹ như nước trong nguồn chảy ra.

Các người mất đi, chúng ta tin như còn phảng phất đâu đây:

Chồng nhớ vợ lòng tơ bối rối,
Con thương mẹ luỵ ngọc tuôn dầm.
Có linh chín suối đừng xao lãng,
Thỉnh thoảng về thăm lúc tối tăm.
(Bùi Hữu Nghĩa)

Chúng ta tín ngưỡng nơi người thân yêu của chúng ta không chết với xác thịt. Đấy là tín ngưỡng linh hồn bất tử của sự thờ phụng Tổ tiên, như cụ Phan Bội Châu đã khóc cụ Phan Châu Trinh:

Vẫn biết tinh thần di tạo hóa
Sống là còn mà chết cũng như còn.

Và đại chúng nông dân Việt vẫn có cái tín ngưỡng chất phác rằng người ta “sống về mồ về mả, không phải sống về cả bát cơm”. Có như thế chúng ta mới có lúc vươn lên những lý tưởng cao cả của đoàn thể, vượt lên trên kinh tế riêng tư:

Ở đời muôn sự của chung,
Hơn nhau một tiếng anh hùng mà thôi.

Do tín ngưỡng ấy mới có tinh thần đoàn kết ái quốc ái quần của dân tộc, cùng nhau sinh tử cộng tồn trên lãnh thổ của Tổ tiên để lại, từng tưới bằng máu nóng, bón bằng xương khô.

Vậy tôn giáo Tổ tiên chính là tôn giáo cổ truyền nhất của Việt Nam, khiến chúng ta ngày nay còn nhớ đến ngày giỗ Tổ. Nhà tôn giáo học danh tiếng, linh mục L. Cadière đã nhận thức:

“Tín ngưỡng Tổ tiên chi phối toàn thể gia đình cũng như tín ngưỡng Thần linh chi phối đới sống hằng ngày của người dân Việt” (Croyances et pratiques religieuses des Vietnamiens)

Đấy là hai nguồn tôn giáo tối cổ của nhân loại, tôn giáo linh hồn Tổ tiên với tôn giáo Thần linh thiên nhiên đã hợp nhất trong tâm hồn truyền thống Việt Nam.

Và ngày lễ Tổ tiên quan trọng nhất ở xã hội nông nghiệp là ngày Tết đầu năm, đánh dấu một vòng thời tiết bốn mùa xuân, hạ, thu, đông ở khí hậu Bắc Việt. Để tỏ lòng biết ơn Tiên Tổ, người ta dâng cúng tất cả công lao một năm của nông dân ở cặp bánh chưng, bánh dầy làm bằng gạo, dò, lá xanh, thịt heo v. v. . sản phẩm nông nghiệp. Nhưng ăn Tết đối với nông dân không phải chỉ là nghĩ đến Tổ Tiên mà thôi. “Năm hết tết đến” trong tâm hồn nông dân còn là cụ thể hóa cái tín ngưỡng “nguồn sống” tuần hoàn đại đồng bất tuyệt của thời tiết. Đấy là điểm thứ hai của cái ý thức hệ Lạc Việt.

Nếu các tôn giáo lớn trên thế giới tin Thượng Đế, Thực tại tối cao là ánh sáng thì dân nông nghiệp Lạc Việt sớm tín ngưỡng vào Thực tại tối cao là nguồn sống vĩnh cửu tràn ngập vũ trụ Thời Không, luân lưu trong trời đất một ý chí sinh hóa như Cao Bá Quát đã nói: “Kiền Khôn Nhất sinh ý”. Một ý chí sinh hóa duy nhất của Trời đất coi như cha mẹ. Với tín ngưỡng lạc quan yêu đời ấy nông dân nhẫn nại cần cù trên mảnh đất ruộng vuông tuỳ theo thời tiết bốn mùa tuần hoàn hàng năm mà trồng trọt gặt hái. Nhà nhân loại học René de Hetrelon đã biện biệt sự khác nhau giữa tính tình Đông Tây căn cứ vào cách thức sinh hoạt như sau:

“Người trồng cây lúa hành động theo cách thức giống như pháp thuật hay tôn giáo. Hành động của nó không thấy ngay hiệu quả trước mắt. Gặp thời tiết nhất định trong một năm, tuỳ với vị trí của ngôi sao đã định ra, nó bắt đầu làm đất, một công việc kỳ lạ không có hiệu quả tức thì. Trong đống đất đã vun xới ấy, nó vùi những củ hay rắc những hạt giống ăn được cầu để nuôi thân. Sau đấy, khi đã làm xong những công tác tập truyền, nó bèn đợi chờ. Nó bảo vệ giữ gìn các mảnh đất đã trồng trọt hay gieo cấy bằng cách ngăn ngừa không cho các giống vật khác đến quấy phá sự nảy nở. Nó bảo vệ một cách thụ động tiêu cực, một vài tháng sau nó thu hoạch được gấp bội kết quả của những vật nó đã đặt xuống dưới đất. ”

Sinh hoạt có tính cách thần bị thì tín ngưỡng cũng đượm màu huyền bí. Nhà nông không phải chỉ tham gia vào phạm vi thiêng liêng có tính cách không gian, ruộng đất màu mỡ, động lực trong hạt giống, nhưng công việc của họ còn được hợp hóa và bị điều khiển bởi cả một thời gian, bởi cả một vòng thời tiết. Sự liên kết nông nghiệp với vòng tròn thời tiết tuần hoàn giải thích được nhiều nghi lễ có quan hệ đến sự “tống cựu nghinh tân”. Có lẽ vì thế mà ở Á Đông hai phạm trù thời gian và không gian đã đi liền với nhau thành vũ trụ như định nghĩa là “xưa đi nay lại gọi là Trụ, bốn phương trên dưới gọi là Vũ”. Và nông dân Việt Nam đã giàu tưởng tượng để sớm cụ thể hóa hết súc linh động ra cái hình vuông, hình tròn của cặp bánh chưng, bánh dầy chồng lên nhau, mà thực chất là tất cả sản phẩm hoạt động căn bản của nhà nông. Đấy là cả một vũ trụ quan không do suy luận mà ra, nó là vũ trụ quan thiêng liêng của cả một xã hội sinh hoạt về tình cảm, lý trí và ý chí đầy đủ đã kết tinh thành một Tượng trưng ví như hình Bát quái của Trung Hoa hay hình chữ svasika: “Vạn” của Ấn Độ. Trong cái khuôn thiêng vũ trụ, trời tròn đất vuông thời không ấy….

Khuôn thiêng biết có Vuông Tròn cho chăng? (Nguyễn Du) thì người lãnh đạo quốc gia phải ý thức làm sao cho thích hợp với cuộc sống cộng đồng của Việt tộc cùng cuộc sống riêng của cá nhân, như nhà cách mệnh quốc gia Việt Nam cận đại, cụ Phan Bội Châu, khi mới bước chân khỏi nhà tù Hà Nội đã nhắn nhủ đồng bào toàn quốc:

Trăm năm tính cuộc vuông tròn
Phải dò cho đến ngọn nguồn lạch sông.
(Truyện Kiều)

Ở trường hợp vua Hùng, nhà vua đang lo lắng băn khoăn, đang dò “ngọn nguồn lạch sông” để tìm người nối nghiệp có khả năng đức độ “tính cuộc vuông tròn” cho sơn hà xã tắc, cho Quốc gia dân tộc của nòi giống Lạc Hồng. Nhà vua đã không nghĩ đến tư lợi, từ chối “Trân cam mỹ vị, của báu vật lạ” mà trao ngôi lãnh đạo nhân dân cho Lang Liêu chỉ có cặp bánh vuông bánh tròn là vì đấy là người hiểu biết điều kiện sinh tồn của đoàn thể nông nghiêp thì mới có tài kinh bang tái thế. Lang Liêu đã có được cái sáng kiến bánh chưng, bánh dầy như thế là đã có được cái ý thức của xã hội nông nghiệp, tức là ý thức hệ dân tộc để quan niệm trước khi hành động thì mới sắp đặt và bảo vệ trật tự, biết người và khéo dùng “tri nhân thiên nhiệm” của người chỉ huy lãnh đạo, ra lệnh hợp thời “sử dân dĩ thời”. Như thế mới được người ta tâm phục. Có chinh phục được lòng người thì mới điều khiển được nhất trí cái guồng máy chính trị của một nước. Vì thiếu cái ý thức hệ ấy mà giới kẻ sĩ lãnh đạo thời Tự Đức mới để cho nước mất nhà tan, cho nên Phan Thanh Giản phải thở dài trước khi tuẫn tiết:

Trời thời, Đất lợi là người hòa.

Đấy cũng để nhắc lại cái ý thức hệ Vuông Tròn hay Tam Tài của Lang Liêu được vua Hùng trao cho ngôi báu, không kể con trưởng con thứ, chỉ cốt được người hiền năng có thể thông cảm nguyện vọng âm thầm của tầng lớp nông dân để trị vì, vì dân và cho dân vậy.

Điểm thứ ba của cái ý thức hệ Lạc Việt, Vuông Tròn ngụ ở cặp “bánh chưng bánh dầy” cổ kính là sự kiện Lang Liêu đã được Thần linh báo mộng cho cái ý thức hệ ấy. Trong lúc bơ vơ, tứ cố vô thân chẳng biết nương tựa vào ai, lòng tuyệt vọng chỉ còn biết cầu khẩn Tổ tiên ngầm giúp cho phép lạ. Phép lạ ấy đã đến cho Y qua giấc mộng giữa tinh thần với tinh thần, không qua ý thức cảm giác và lý trí. Đấy là cái biết trực giác tâm linh như trường hợp Thần Đồng Cổ đã báo mộng cho vua Lý Thánh Tông sau này để đề phòng quốc biến vậy. Chắc hẳn Lang Liêu nhờ có đức tin mạnh mẽ vào Thần linh Tiên Tổ hay vào Phật Trời mới có được cái trực giác tâm linh:

Nghiêng vai ngửa vái Phật trời
Đương cơn hoạn nạn độ người trầm luân.

Vì cô liêu, mất mẹ từ sớm Lang Liêu thật ở trong cảnh ngộ bơ vơ một mình chỉ còn nội hướng vào lòng mình mà cầu nguyện, đem hết tinh thần chú ý vào lời cầu nguyện.

Duyên lai nhất niệm khả thông Thần.

Nghĩa là: “cơ duyên đến thì một niệm thành tâm có thể thông cảm với Thần minh”.

Lang Liêu hết sức tin tưởng vào sự phù hộ của Tổ tiên, Thần linh hay âm phù kẻ xấu số khốn cùng như tầng lớp nông dân xấu số đất Việt xưa, chỉ trông vào sức phù hộ của Trời Phật mầu nhiệm thông cứu khổ cứu nạn.

Phúc thay cho tâm hồn chất phát, Thiên đường dành cả cho người.
Phúc thay cho tâm hồn hiền lành, người sẽ được cả trên mặt đất.
Phúc thay cho tâm hồn trong sạch, người sẽ thấy Chúa Trời.
(Thánh kinh Tân Ước)

Chính tâm hồn ấy là tâm hồn của Lang Liêu đại diện cho nông dân chất phác hiền lành sống gần gũi với thiên nhiên bởi thế nên Trời Phật, Tổ Tiên đã báo mộng cho cái ý thức hệ “bánh chưng bánh dầy” để dâng lên bàn thờ Tổ. Và nghĩ đến ngày Tết, năm mới đến năm cũ đi trong lòng Lang Liêu lại phấn khởi với niềm tin tái tạo cuộc đời, trút hết không may về quá khứ để sẵn sàng đón lấy tất cả sự tốt lành trong ý nghĩ, trong lời nói cũng như trong việc làm. Đấy là hình ảnh của cặp bánh tượng trưng đã gợi lên ngày Tết của toàn thể dân Việt nhớ đến Tổ (10-3), nhớ đến nguồn gốc con Rồng cháu Tiên vậy.

Với cái ý thức hệ khá đầy đủ trên đây của một nhân bản toàn diện giải đạp cho con người về cả ba phương diện: người với thiên nhiên, người với người trong xã hội, người với mình trong tâm lý cá nhân. Xã hội chính trị Việt Nam đã lấy xã thôn làm cơ sở cho tổ chức dân chủ xã hội nguyên thuỷ mà Đình làng là tiêu biểu nhất vừa là nơi thờ tự Thần hoàng, vừa là nơi hội họp hội đồng kỳ mục để bàn bạc việc kinh tế, hành chánh của làng. Đấy là bằng chứng cụ thể cho cái tinh thần văn hóa, chính trị hợp nhất cả Đạo và Đời, siêu nhiên với hiện thực.


Bài 2

Một buổi chiều tà đi trên bờ đê Hồng Nhị, cuồn cuộn dòng nước đục của phù sa mầu mỡ, đàng xa dãy núi Tam Đảo, Ba Vì màu lam thẫm, chợt bên tai giọng véo von trong trẻo của một thôn nữ đang lúi húi dưới ruộng lúa vàng:

Ai đưa em đến chốn này
Bên kia là núi, bên này là sông.

Ai chẳng thấy xúc động tâm can, mà nghĩ lung về câu hỏi thành thật hồn nhiên của một tâm hồn nông dân giàu tình cảm. Chính vậy ta đây với núi kia, sông nọ, há không có một mối tương quan mật thiết từ lâu? Giang san này từ đầu mở cõi, dân tộc này đã có từ bao giờ?

Non cao ai đắp mà cao
Sông sâu ai bới, ai đào mà sâu?

Và nhà thi sĩ Tản Đà diễn giải thêm:

Này bức dư đồ thử đứng coi,
Sông sông núi núi khéo bia cười,
Biết bao lúc mới công vờn vẽ,
Mà đến bây giờ rách tả tơi.
Ấy trước ông cha mua để lại…

Sự thực ông cha chúng ta không phải mua đất bán rẻ của ai cái lãnh thổ Việt Nam yêu dấu này, mà là đã dầy công tranh đấu, mạnh được yếu thua như lời khóc của cụ Phan Bội Châu khi ai điếu Phan Chu Trinh trong một bài văn tế đọc ở Huế:

Tuồng thiên diễn mưa Âu, gió Mỹ,
Cuộc nọ kém thua, hơn được,
Ngó non sông nên nhớ bậc Tiên Tri;
Dấu địa linh con Lạc cháu Hồng.

Vậy ông cha ta là ai, đến đây khai thác tự bao giờ, đã phải tranh đấu vật lộn như thế nào, và nay chúng ta nên nối chí ra sao, đấy là những ý nghĩ nó hiện trong tâm tư chúng ta không sao dừng được, mỗi khi đến ngày giỗ tổ.

Hai chữ Hùng Vương nhắc lại ta hồi ức bước đầu chập chững lập cơ sở nông nghiệp định cư, để sống cuộc đời văn minh có tổ chức Quốc gia của một ngành trong các ngành Việt tộc là ngành Văn Lang vẽ mình. Từ Phúc Yên đi về Hà Nội, đi qua Loa thành còn lại nhấp nhô một vài ngọn đồi đất, rồi rẽ vào cánh đồng làng Cói khi sắp tới mùa gặt, không khí nực mùi lúa tám thơm, vắng nghe tiếng hát của cô thợ gặt, tức cảnh sinh tình:

Thương cho hạt gạo tám soan
Thổi nồi đồng điếu lại chan nước cà!

Và chúng ta liên tưởng đến hình dáng của cái nồi đồng điếu, từ cái nồi đồng điếu đến cái Cối giã của người dân Mường ở Lương Sơn, từ cái cối ta liên tưởng đến cái dáng của trống đồng mà các nhà khảo cổ đã khai quật ở Đông Sơn miền Thanh Hóa, hiện để ở viện Bác Cổ. Chúng ta nhân cái dấu tích của cái trống đồng mà suy ra đến nền văn hóa Đông Sơn bao quát toàn cõi Đông Nam Á đến cái xã hội bắt đầu bước vào cái văn minh nông nghiệp của Việt tộc, rải rác từ Triết Giang xuống tận Thanh Hóa Nghệ An. Thật vậy, cõi Đông Nam Á này từ sông Dương Tử trở xuống hàng ngàn năm trước kỷ nguyên trong khi Hán tộc còn đang mải xây dựng cơ đồ, nhà Thương, nhà Chu, ở lưu vực sông Hoàng Hà Vị Thuỷ gọi tất cả các dân tộc ngoài Trung Quốc, nghĩa là về phía Nam sông Dương Tử là man di thì cái cõi Đông Nam Á này vốn là sân khấu của một số lớn dân tộc Bách Việt. Khi Hán tộc đã có tổ chức của một xã hội vững bền thì Bách Việt hãy còn sống đời bán du mục bán nông phố, sinh nhai theo ven sông bãi bể. Sống với sản phẩm của ngòi sông, cho nên giỏi nghề bơi lội, lấy giống khoẻ nhất ở nước là cá sấu đem thần thánh hóa bằng tưởng tượng ra con rồng kỳ lạ, để lấy làm Vật tổ, và Vật tổ ấy sẽ tập trung tất cả tâm hồn của đoàn thể…

Nhân loại bấy giờ là nhân loại còn mộc mạc hồn nhiên, cùng với các thế tục tự nhiên giao dịch thân mật, “đồng đồng vãng lai”, ấy là tinh thần ma thuật vật linh, tinh thần phù thuỷ, tinh thần “chài ngải” của Mường Mán ngày nay hay “gồng” chà kha. Ấy là thời kỳ chưa lấy thờ phượng tổ tiên làm căn bản xã hội tinh thần, mà lấy tục bái vật làm tôn giáo coi vạn vật đều có linh hồn như mình cả. Ở thời ấy cá nhân chưa ích kỷ nghĩa là chưa phân biệt đời sống của mình với đời sống của đoàn thể. Đoàn thể là một thế lực độc nhất thiêng liêng. Hồn nước phảng phất bao bọc chung quanh mình, mình đi đâu theo đi đấy, trong giới hạn của khí hậu có Vật tổ của mình. Song cứ lang thang đời sống bộ lạc du mục, nay đây mai đó thì chỉ là sống cầu may, ăn sổi ở thì, vì như một nhóm người chưa có gia sản, chưa có thể “tích cốc phòng cơ” thì làm sao mà có thể phát triển văn minh được, cho nên nhân loại sớm phân biệt ra làm hai nhóm dân tộc, một nhóm theo đuổi đời sống du mục trong rừng núi, với một nhóm tách khỏi đoàn thể cùng một Vật tổ để tìm nơi an cư lạc nghiệp ở các bãi phù sa, có đường thuỷ để giao thông có núi bể để che chở ngoại xâm, có đất màu mỡ để cầy cấy. Một ngành trong Việt tộc đã rời cao nguyên Bắc bộ, mà chọn nơi đồng bằng sông Nhị hà và Thái Bình, phía đông có Thái Bình Dương, phía tây có dãy Hoành Sơn là những bức thành tự nhiên. Ở đây đoàn thể Văn Lang trong các ngành Việt tộc đã dừng chân tìm đặt nền móng cho giang sơn đất Việt:

Nam quốc sơn hà Nam Đế cư…

“Một hôm Lạc Long Quân bảo với Âu Cơ rằng: “Ta là loài Rồng, nàng là loài Tiên, thủy hỏa tương khắc khó chung sống với nhau được”. Vợ chồng từ đấy phân ly, chia con làm đôi năm mươi con theo mẹ về núi năm mươi con theo cha xuống bể, cắt con trưởng làm vua Hùng nối ngôi, đặt quốc hiệu là Văn Lang đóng đô ở Phong Châu nay là Bạch Hạc truyền mười tám đời đều gọi là Hùng Vương”.

Từ đấy nàng ở lại phương Bắc với đàn con, chàng đi xuống phương Nam với đàn con. Ở bộ lạc du mục thì còn nhiều tính chất của xã hội cộng sản nguyên thuỷ. Đến khi chuyển sang định cư ở đồng bằng Bắc Việt ngày nay theo chế độ nông nghiệp, thì Lang biến thành Làng, tinh thần bái vật biến dần sang tín ngưỡng Tổ tiên, Vật tổ biến thành Tổ quốc lấy sơn hà xã tắc làm cơ sở, chế độ phụ hệ thay thế cho chế độ mẫu hệ để thích ứng với điều kiện kinh tế sinh hoạt mới từ thiên hạ vì công “biên sang” thiên hạ vì gia “cần phải có thừa tự cha truyền con nối”.

Trong khi ấy thì Hán tộc ở phía Bắc tại lưu vực Hoàng hà đã dựng cơ nghiệp xong đang sửa soạn bành trướng xuống phương Nam… vì luôn luôn bị Bắc địch xâm lăng, Hán tộc mới ngó xuống miền Nam sông Dương tử cảu dân Bách Việt, sách “Giao Châu Vực ký” là sách sử cổ nhất Trung Hoa có viết:

“Đời xưa, khi nước Giao Chỉ chưa chia làm quận, huyện, nghĩa là chưa bị Hán tộc đô hộ, thì lãnh thổ chia ra thành những cánh đồng gọi là Lạc điền. Trong những cánh đồng ấy, nứơc lên xuống theo thuỷ triều, dân cư cầy bừa những ruộng ấy để sinh nhai”.

Giáo sư Maspero trường Viễn Đông bác cổ kết luận về nước Văn Lang của giống Lạc Hồng: “Xã hội có trật tự trên dưới và phong kiến tương tự với dân Thái, dân Mường ở miền Đà giang và các vùng giáp giới Bắc Việt với Ai Lao ngày nay.

Người Bắc Việt bình dân không hay di chuyển và lập thành các đoàn thể nhỏ gồm các làng đặt dưới quyền cai trị của Lạc tướng thể lập. Những Lạc tướng giữ quyền tôn giáo, chính trị và binh bị.

Về phương diện vật chất thì cũng khá tiến bộ. Dân ở Bắc Việt xưa kia cày ruộng không dùng cày và trâu mà dùng cuốc bằng đá chuốt.

Họ đã biết cấy một năm hai mùa, và nếu thật họ biết lợi dụng được mực nước sông lên xuống để cho nước vào ruộng, thì họ cũng đã là những nhà nông giỏi. Còn về binh khí họ có những chiếc cung lớn độ vài thước cao để dùng bắn những mũi tên có tẩm thuốc độc, họ đã biết đúc đồng để làm mũi tên.

Họ hay ưa vẽ mình, búi tóc đàng sau gáy và chít khăn cũng như bây giờ con cháu họ còn theo. Tuy rằng Triệu Đà gọi nước họ là “nước của dân lõa lồ” nhưng không nên hiểu theo nghĩa đen của lời ấy.

Xem như thế những chuyện về đời Hùng Vương ngày nay còn truyền tụng hẳn không phải là hoàn toàn hoang đường, mà trái lại ngụ nhiều ý nghĩa xác thực. Ý nghĩa bình dân với loã lồ diễn tả trong truyện Chử Đồng Tử, không bình dân sao một công chúa như Tiên Dung Mị Nương lại kết hôn với chàng Chử Đồng Tử nghèo đến không sắm nổi cái khố, mà đến nỗi hai cha con phải dùng chung. Không bình dân mà sao anh hùng lại xuất thân nơi hàn ốc.

Lại có câu chuyện Tương Chi, anh lái đò mơ màng nàng công chúa song không được may mắn như Chử Đồng Tử với Tiên Dung Mị Nương. Đấy là tượng trưng tục kết hôn không phân biệt giai cấp của dân tộc Việt từ cổ lai, yêu nhau giá thú bất luận tài. Dù về sau Hán tộc có thịnh hành ở xã hội Việt Nam mà sinh cái lệ môn đăng hộ đối, như môn đăng hộ đối đâu là để cấu lấy dòng thi lễ, nơi trâm oanh, chứ không phải có phân biệt giai cấp như ở các xã hội phong kiến khác. Cho tới ngày nay, trước làn sóng tư tưởng lái buôn đang rồn rập làm giao động đến cỗi rễ xã hội Việt Nam, chúng tôi tin chắc có nhiều bà từ mẫu sẵn lòng gả con gái yêu cho một học trò kiết. Đấy là tinh thần bình dân của văn hóa cổ truyền Việt Nam vậy.

Muốn khai khẩn đồng bằng sông Nhị, không có tài trị thuỷ, không biết đoàn kết để hợp tác và phân công thì làm sao giải quyết được nước lụt ở trung châu Bắc Hà này, để xây dựng cơ sở cho xã hội nông nghiệp. Lúc đầu còn đóng đô ở Bạch Hạc là cửa ngõ trung nguyên dần dần mới tiến xuống Cổ Loa và Long Biên, ấy là tuần tự theo sau công cuộc khai thác đồng bằng và giải quyết vấn đề nước lụt. Cho nên truyện Sơn Tinh, Thuỷ Tinh chẳng đã ngụ cái công trình khó nhọc để tranh đấu gian nan, hòng cướp lấy miếng đất phì nhiêu mở đầu dòng nước phù sa cuồn cuộn hãi hùng. Nhân công tranh đấu với hóa công, nào chỉ có đối với nước lụt. Ngoài nước lụt còn phải thích ứng với thủy thổ nóng rét bất thường, ẩm thấp sinh bệnh. Cho nên bảo rằng ruộng bốc hơi độc nên gọi là “Hùng Điền”. Loài người tranh đấu với thiên nhiên bằng gì, nếu chẳng phải bằng kỹ thuật mà kỹ thuật nông nghiệp là khí cụ canh tác.

Hơn nữa còn phải sống với những cuộc xâm lăng của các dân tộc du mục, thường hay đi xâm chiếm vào các xã hội định cư, vì miếng ăn cho nên phải có khí giới sắc bén, nào gươm của Phù Đổng Thiên Vương, nào nỏ thần của Thục An Dương Vương. Muốn chế tạo khí cụ để tăng gia nhân công, trong công việc sản xuất, cung cấp cho một xã hội sinh sôi nảy nở đông đúc miệng ăn, thì ít ra người chỉ huy cũng phải dạy dân cách đo lường đo vuông và đo tròn, đấy là quy củ còn tỏ ra cái trí thức về tài tổ chức. Cho nên vua Hùng thứ sáu, sau khi đã phá được giặc Ân, nhờ bậc anh hùng dân tộc là Phù Đổng Thiên Vương, muốn truyền ngôi cho con mà trong hai mươi hai ông quan Lang đem chân cam mĩ vị đến dâng, lại chỉ chọn lấy chiếc bánh chưng vuông, bánh dầy tròn mà trao ngôi thủ lĩnh cho người con thứ mười tám. Ý hẳn là với quan niệm trời tròn đất vuông, nhà vua xét ông này mới đủ kiến thức kinh luân để mà:

Trăm năm tính cuộc vuông tròn.

Xã hội nông nghiệp là xã hội lấy tổ chức gia đình làm đơn vị xã hội kinh tế cũng như xã hội tôn giáo chính trị. Một xã hội phức tạp là phải có tổ chức, muốn tổ chức phải lấy chế độ để quy định đường lối quan hệ giữa người với người với sự vật, tức là phép xử thế tiếp vật, tức là lễ vậy. Xã hội lấy gia đình làm đơn vị, mà gia đình thì lấy cá thể làm một cặp âm dương tức là vợ chồng, chứ không phải lấy cá nhân làm đơn vị như ở Tây phương cận đại “Quân tử chi đạo tạo đoan hồ phu phụ”.

Đường lối người đối xử với ngừơi bắt đầu từ cách thức cư xử giữa vợ chồng. Cho nên tình vợ chồng là quan hệ căn bản, thì tính cách lấy nhau cũng bắt đầu quy định cho nó một tính cách thiêng liêng. Ấy là ý nghĩa trong truyện trầu cau.

Trầu cau có ý nghĩa siêu thân hóa tình vợ chồng, lấy tôn giáo thuần phong mỹ tục để sửa trị dường mối xã hội. Vậy dân tộc Việt Nam đoàn thể Văn Lang đã có ý niệm về luân thường đạo lý, trứơc khi chịu ảnh hưởng của văn hóa Trung Hoa.

Và trước khi Hán tộc tràn xuống đô hộ miền Nam thì phong tục Văn Lang, nhất là về sự giao thiệp, giữa nam nữ hãy còn tự do chất phác. Bằng chứng là ngày nay từ thôn quê Bắc Ninh lên đến Phú Thọ, gặp ngày đầu xuân, trai gái rủ nhau lên đồi, vào động, hát những câu hát phong tình:

Đêm qua sáng trăng mờ mờ
Em đi gánh nước tình cờ gặp anh.
Vào vườn chẩy quả cau xanh
Bổ ra làm tám, mời anh xơi trầu
Trầu này têm những vôi tầu
Ở giữa đệm quế, đôi đầu thơm cay
Chiềng anh xơi miếng trầu này
Dù mặn, dù nhạt, dù cay, dù nồng.
Dù chăng nên đạo vợ chồng
Cầm năm ba miếng kẻo lộng nhớ thương!

Lại còn tục lệ động thổ ở các làng Việt Nam từ dân làng phong tước cho Thần bằng cách đặt ba nắm đất gốc cây cổ thụ trước sân đình, phảng phất với tục thờ thần bên Trung Quốc, nhưng khác là ở Trung Quốc thì nhà vua ban cho chư hầu một miếng đất để về lập bàn thờ, như thế chứng tỏ xã hội Việt Nam vốn có tinh thần bình dân hơn xã hội Trung Hoa vậy.

Đấy là xã hội Việt Nam trước khi bị các văn hóa khác du nhập. Nước Văn Lang là một tổ chức nông nghiệp, có tính cách xã hội với chế độ kinh tế, bán công bán tư, đến ngày nay vẫn còn di tích, có tinh thần dân chủ bình dân của tổ chức Làng xã, có tinh thần tự do tín ngưỡng phiếm thần. Nam nữ chưa theo hẳn quy chế “thụ thụ bất thân” của Hán tộc, cùng nhau tỏ khí phách anh hùng trong công cuộc bảo vệ giang sơn đất nước và kiến thiết quốc gia chung. Đấy là ý thức Quốc gia Dân tộc thuần tuý ở Việt Nam ở bước dầu trên con đường Nam tiến. Từ đây trở đi, ròng rã trong khoảng hơn hai ngàn năm, từ sông Dương tử cho chí bờ bể phía nam Thái Bình Dương, trên một sân khấu rộng lớn, đã diễn ra cuộc tranh hùng giữa hai chủng tộc, Hán tộc với Việt tộc. Các đoàn thể Việt tộc từ Triết Giang, Động Đình, Ba Thục, Quảng Đông, Quảng Tây đến Giao Chỉ (Bắc bộ) đến Cửu Chân (Thanh Nghệ) dần dần bị đồng hóa vào văn hóa Trung Hoa hoàn toàn. Các triều đại Trung Quốc dùng võ lực thôn tính, sát nhập vào bản đồ Trung Quốc như chúng ta đã thấy. Duy có đoàn thể Lạc Việt này, sau một thời hàng ngàn năm đô hộ đã nhẫn nại bền gan theo gương Câu Tiễn, cái gì của người hay mình thâu lấy, cái gì của mình dở thì bỏ đi, nhưng không bao giờ vong bản, luôn luôn biểu lộ cái ý chí độc lập, cái ý thức Quốc gia Việt tộc mỗi ngày một sáng suốt. Kìa như Âu Lạc của nhà Thục, kế nghiệp Văn Lang của nhà Hùng đúng hơn của nhà Lạc, cùng là hai giống Việt tộc, họp làm một, cùng tỏ ra một tinh thần độc lập cương quyết đối với thế lực của nhà Tần.

Sử chép: “Người Việt không chịu làm dân nhà Tần, trốn vào rừng ở, ngầm đặt người mạnh giỏi lên làm tướng nhân khi quân Tần trễ nải, khởi lên đánh giết Đồ Thư là hiệu uý của Thuỷ Hoàng”. Kìa như Triệu Đà là người Tầu, sau khi dùng mưu mà chinh phục người Âu Lạc, đặt tên nước là Nam Việt, tự xưng là Việt Vương cũng có một tinh thần không chịu sát nhập vào Trung Quốc của nhà Hán. Lữ Gia, thừa tướng Nam Việt cũng quả quyết giết kẻ gian thần cùng sứ bộ Tầu, sẵn sàng chống cự với quân Tây Hán. Như thế đủ thấy từ thời kỳ Bắc thuộc, ý thức quốc gia Việt tộc đã cương quyết, trung thành với lý tưởng “Nam quốc sơn hà Nam đế cư” của tướng quân nhà Lý.

Nhưng từ Hồng Bàng cho tới nhà Lý, kể đường đất còn dài (258 tr. cn đến 1010 s. cn) tính ra có hơn 12 thế kỷ, cuộc đô hộ của Hán tộc đã thay đổi bản sắc Việt Nam như thế nào, dân tộc Việt đã nhờ có sự Bắc thuộc mà tiến hóa hay là đã vì nó mà thoái hóa? Đấy là một câu hỏi đã làm cho chúng ta phải suy nghĩ.

Người ta thường ví cuộc đô hộ của nhà Hán trên đất Giao Chỉ với cuộc đô hộ của đế quốc La Mã trên đất Gaule. Ngày nay sử gia Pháp đều công nhận có cuộc đô hộ ấy mà dân Pháp đã thâu thái được văn minh La tinh, rồi mới có điều kiện để thống nhất thành quốc gia dân tộc Pháp. Còn dân tộc Việt đối với cuộc đô hộ của Hán tộc thì sao? Chúng ta cũng phải công nhận một điều là Hán tộc trong cuộc đô hộ đã truyền bá văn minh sang cho ta và nhờ đó mà chúng ta đã được phát triển về các phương diện kinh tế, chính trị, xã hội, văn hóa. Chúng ta không thể chối cãi rằng cầy sắt trâu kéo thay vào cuốc thuổng bằng đá mài, đã không làm tăng gia lực lượng sản xuất của xã hội Việt Nam. Lực sản xuất tăng gia thì dân số mới tăng gia và dân tộc mới cường thịnh. Ngoài ra văn hóa Hán tộc đã là một nền văn hóa nông nghiệp cao đẳng với nền triết học phong phú uyên thâm của Xuân thu chiến quốc hẳn đã giúp nhiều tư tưởng cho dân Việt. Dân Việt cũng hẳn nhận thấy thế mà đã lập đền thờ Sĩ Nhiếp và thường nhắc nhở Tích Quang với Nhâm Diên, là những quan cai trị Tàu. Không ai chối cãi là văn hóa Hán tộc đã biểu thị rực rỡ mãnh liệt cái tổ chức chính trị, kinh tế, xã hội trên nền tảng nông nghiệp.

Nhưng cũng vì cái văn hóa ấy đã tỏ ra quá đồ sộ nguy nga cho ta, kiến trúc quá chật hẹp đối với tính tình của ta, cho nên cá tính dân tộc Việt Nam đã không phát triển được tự do tiềm năng của nó.

Song nếu xét ở thành tích lịch sử thì chúng ta thấy đại khái dân Việt vẫn luôn luôn cố giữ cá tính của mình và cố thâu thái của người để thích ứng vào tính tình của mình, chứ không bao giờ chịu hoàn toàn mượn một cách vô ý thức. Bằng chứng là trong thời Bắc thuộc, hai phen khởi nghĩa đầu tiên, dân chúng đã suy tôn quyền phụ nữ, toàn dân hưởng ứng và tuân theo sự lãnh đạo của hai bà Trưng và của bà Triệu. Đấy là chung thành với phong tục Lạc Việt về sự tôn trọng nữ quyền. Nếu các bà đã thất bại, không phải vì không được lòng dân nhưng chính vì tổ chức quân đội chưa hoàn bị. Và sau này đến Đinh Tiên Hoàng ý thức quốc gia Việt Nam mới được thực hiện, một trong những điều kiện thành công ấy hẳn là đã thâu hóa phương pháp tổ chức chính trị và hình bị của đối phương tài giỏi hơn mình. Và cũng nhờ sự học hỏi thêm tài chính trị thống nhất của Trung Quốc mà Đinh Bộ Lĩnh đã thống nhất được quốc gia Việt Nam bằng chính trị đi đôi với binh bị.

Về chế độ chính trị và chế độ quân chủ của Việt Nam còn giữ được nhiều tính cách bình dân, chứ không phong kiến như Trung Hoa. Bởi vì tổ chức hành chính đã lấy làm đơn vị mà tổ chức Làng vẫn giữ được tính cách dân chủ, như ở thời “Làng”, công điền đi đôi với tư điền, hành chính do sự tuyển cử chọn ra, phảng phất như một hội đồng thị tộc ngày xưa. Còn đối với chính phủ trung ương thì tuy tôn trọng nhưng vẫn giữ tính cách địa phương tự trị. Cho nên tục lệ ít ra cũng được coi ngang hàng với pháp luật “Luật vua thua lệ làng”.

Cái tinh thần bình dân ấy đã nhiều phen bột phát trong lịch sử bằng cuộc cách mệnh chính trị táo bạo như Hồ Quý Ly, muốn quốc hữu hóa điền địa hạn chế tư sản không quá mười mẫu, về tiền tệ cấm tích trữ bạc tiền, về giáo hóa thì bắt Nho sĩ quay về thực học. Sau Hồ Quý Ly đến nhà Tây Sơn Nguyễn Nhạc, Nguyễn Huệ lãnh đạo nông dân nghèo chống với giai cấp chỉ huy, lúc bấy giờ đã phản quyền lợi của dân tộc đi trái với ý chí thống nhất của quốc gia. Về phương diện cải cách xã hội nhà Tây Sơn cũng tỏ ra tính cách Việt Nam bằng cách bỏ chữ Hán thay bằng chữ Nôm. Vua Quang Trung định hun đúc cho người Nam một nền văn hóa riêng biệt, một quốc gia hoàn toàn độc lập để đối chọi với Trung Quốc vẫn coi thường Việt Nam như một phiên thuộc. Nhưng dục tốc bất đạt, nhà Hồ cũng như Tây Sơn đã thất bại vì vội vàng.

Ngoài văn hóa Trung Hoa thiên về thực tiễn dân Việt Nam còn đồng hóa vào cá tính của mình cái tinh hoa của văn hóa Ấn Độ là một văn hóa có tính cách thuần tuý tâm linh. Cả văn hóa nhà Lý đã đẻ ra trong dân gian một trào lưu Phật học. Nhà vua chỉ mong làm hết nhiệm vụ để rút lui về Chùa, cũng như các Nho sĩ Việt Nam xuất từ cửa Khổng, nhập vào cửa Phật. Ra làm quan để thi hành chính đạo, để vì dân vì nước, lúc về già lại tiêu giao cảnh Phật cảnh tiên. Ví như khẩu khí của một ông quan đời nhà Lý là Đoàn Văn Khâm:

Chống gậy lên non dứt tục trần
Lăng trong ảo mộng bán phù vân
Rắp ranh tôi muốn theo “Trừng” “Thập”
Khốn nỗi cân đai luống buộc chân.

Hay là như đời nhà Trần, hai ông vua bỏ ngai vàng, trốn lên núi đi tu là Trần Thái Tôn và Trần Nhân Tôn. Tác giả kinh Khóa hư Trần Thái Tôn có viết: “đạo của Đức Phật ta lại phải mượn đấng tiên thánh nhân để truyền bá cho đời”.

Như thế đủ thấy cái tinh thần văn hóa dân tộc của Việt Nam lấy nghĩa quân bình làm tiêu chuẩn chứ không có thiên lệch.

Quân bình bên lý bên tình, luân lý quốc gia với tình cảm tự nhiên. Mỵ Châu, Trọng Thuỷ, nỏ thiêng hờ hững, giếng ngọc vơi đầy, nghĩa đoàn thể quyền cá nhân bên nào nặng bên nào nhẹ? Không lưỡng lự chàng nam nhi đất Việt đành cam chịu bạc với tình để đền nợ nước, còn nợ tình thì chỉ một thác cho rồi ngày xanh. Bởi vì trong thâm tâm chàng vẫn tin có ba sinh hương lửa, vốn là tư tưởng vật linh truyền thống. Đấy là cái quan niệm lý tưởng về cái nghĩa sống của dân tộc Việt Nam từ ngàn xưa mỗi khi có sự xung đột giữa bên tình bên nghĩa, thì con người ý chí của Việt Nam tức thì xuất hiện, con người lấy nghị lực để giải quyết sự sống hiểm nghèo, giữa hai khối Hán tộc với Hồi tộc. Cái chủ nghĩa ý chí ấy thực đã chứng minh cho cái tinh thần dân tộc Việt Nam bằng cả bộ Việt sử hơn hai ngàn năm không hề gián đoạn, và đã diễn tả bằng một câu chuyện có vẻ hoang đường là quả dưa đỏ: một người phải rời hoàn cảnh xã hội để sống một mình tự lực nơi hoang đảo như Robinson Crusoé, rút cục, với lòng tự tin tuy tin có thiên định, nhưng không ngừng tranh đấu nỗ lực đã thắng nổi cuộc thử thách của thiên nhiên.

Đấy là cái quan niệm Việt Nam về con người lý tưởng, con người lấy ý chí điều khiển cả tâm lẫn vật mà hạnh phúc ở tại chỗ quân bình.

Nhưng dân tộc Việt nào phải chỉ chống đỡ có một mặt Bắc với cuộc đánh đuổi dồn dập của Hán tộc mà thôi. Muốn bảo tồn cá tính và sống còn phải đối phó với mặt Nam, của một làn sóng di dân Anhđônê, từ Mã Lai, Nam Dương dồn tới. Dân tộc này nào phải mọi rợ, trái lại văn hóa của họ còn cao hơn dân Việt. Song mạnh được yếu thua là công lệ của các dân tộc trên mặt đất. Trong cuộc tranh hùng lấy đất sống, dân Việt đã tỏ sự thắng thế vì rồi rào sinh lực hơn dân tộc Chàm, và nhờ văn hóa thực tiễn hơn nó đã thu hưởng được của Hán tộc. Trước sự áp bách Nam tiến của Hán tộc, người Việt tộc cũng phải tranh đấu dẻo dai anh hùng để tiến về phương Nam. Phần tử tỏ ra tinh nhuệ trong giống Việt tộc là Âu Việt và Lạc Việt đã mở đường tiên phong để tiến tới Hà Tiên, Châu Đốc giáp vịnh Xiêm La. Bởi vì dân Việt đi đồng hóa một cách ôn hòa lặng lẽ, suốt trong cuộc Nam tiến họ chỉ tỏ cái khả năng cần cù nhẫn nại, vừa khai khẩn đất hoang vừa sinh sôi nẩy nở, vạn bất đắc dĩ mới phải dùng đến võ lực, và sau võ lực lại bắt tay vào công việc đồng hóa thâm nhập với đời sống của dân bản xứ. Cứ như thế với thời gian, và nghị lực cuộc di dân nếu không có điều cản trở thì hẳn còn đi xa hơn nữa và trên khoảnh đất Đông Dương lấy Hoành Sơn làm xương sống chạy dọc theo bờ biển Thái Bình Dương, biết đâu một Liên hiệp Đông Dương đã không ra đời sớm hơn Liên hiệp Pháp.

Nhà địa lý nhân loại J. Sion viết: “Cuộc bành trướng của dân Việt Nam là một cuộc đồng hóa thật sự. Tính cách đó giải thích vì sao người Việt bành trướng chậm, nhưng rất chắc chắn. Cao Miên và Lào đánh nhau chỉ đem quân cướp lấy tù đem về làm nô lệ, lại có một giai cấp quý phái thống trị dân đen, cho nên có cướp được đất cũng dễ mất ngay.

“Mục đích của người Việt lại khác. Họ không cần bắt nô lệ, họ làm lấy. Đối với họ thắng trận không phải là để có người làm, mà là để có đất cầy ruộng.

“Nhiều khi chiến tranh chỉ là để xác nhận một tình thế sẵn có. Dân Việt bành trướng một cách ôn hòa, sinh cơ lập nghiệp rồi binh mới tới sau. Trước khi Việt Nam sát nhập đất Nam kỳ về mình, người Việt đã lập ở đó những tổ chức, những đám người di cư đã xây dựng làng xóm hay là tới ở chung với người Cao Miên rồi lần lần nắm lấy quyền hành.

“Cuộc bành trướng thi hành bằng cách đưa đến những đám người liên tiếp, đủ các hạng người, dân cầy không có ruộng, những người tù tội, những người trốn tránh chế độ hay là những quân cướp muốn chuộc tội. Cũng có khi chánh phủ thu thập những người đó rồi đưa xuống những miền mới chiếm hay là lập những đồn điền tận biên thuỳ để phòng bị lân bang tới đánh. Những đám người đó có quan lại cai trị và lập thành làng mạc.

“Cuộc bành trướng của các đám bình dân Việt đã là sức mạnh của Việt Nam, cũng như ở Trung Hoa. Cuộc di dân đã biến hóa xứ Nam kỳ thành một xứ hoàn toàn Việt Nam cũng như đất Bắc kỳ. Ngay dưới mắt ta trong cảnh thái bình, cuộc bành trướng đó vẫn tiếp tục khắp đất Cao Miên và đất Lào. (Jule Sion, L’Asie des moussons Géographie Universelle).

Các sự Nam tiến ấy cũng được ngòi bút của nhà bác cổ Aurousseau dẫn chứng rất tinh tường và kết luận: “Những yếu tố những sức mạnh có thể diệt chết một quốc gia mới thành lập, đều vô hiệu quả trước sức sống mãnh liệt của Việt Nam.

“Dân tộc Việt nam chiếm đoạt các đồng bằng Bắc bộ ngay từ cuối thế kỷ thứ ba trước tây lịch. Xã hội Việt Nam trở nên phồn thịnh tại đó. Làn lần các làn sóng người di cư tiếp tục tràn lan mãi về phía Nam, để tới một cái điểm xa nhất trong cuộc bành trướng mà người Bách Việt khởi từ thế kỷ thứ bốn trước Tây lịch.

Người Việt tới trung phần trung bộ ngay từ cuối thế kỷ sau. Tới đây dân tộc Chiêm Thành chặn họ lại một thời kỳ khá lâu. Khi nhiệm vụ chính đã đạt rồi, Quốc gia Việt Nam thành lập. Người Việt vẫn giữ được cái đà bành trướng như một sức mạnh âm ỷ và sau một cuộc tiến triển, sau nhiều năm chinh chiến, đã thắng được đối phương Chiêm Thành vào năm 1471 để tiến mãi về phía Nam tới Quy Nhơn, cuối thế kỷ 15 tới sông Cầu 1611, Phan Rang 1653, Phan Thiết 1697, Sài Gòn 1698, Hà Tiên 1714. Cuối cùng trong nửa đầu thế kỷ 18, người Việt thực hành xong công cuộc bành trướng của dân tộc, và chiếm trọn đất đai Nam bộ hiện thời. (Trích tạp chí Viễn Đông Bác Cổ).

Và đại uý Goesselin trong cuốn L’Empire d’Annam, nhận chân tính cách thống nhất của dân tộc Việt Nam như sau:

“Hết thảy các sử gia có nhiệt tâm tìm sự thật, đều phải công nhận rằng: Khi để chân lên đất Việt Nam người Pháp đã phải đụng chạm đến một dân tộc thống nhất, thống nhất một cách không thể ai ngờ tới từ các miền cao nguyên thượng du Bắc kỳ cho đến biên giới Cao Miên, thống nhất về đủ các phương diện nhân chủng cũng như chính trị và xã hội”.

Xem như thế thì dân tộc Việt Nam ngày nay với một lãnh thổ chạy dài từ ải Nam Quan xuống mõm Cà Mau với một dân số trên hai mươi triệu, với một nền văn hóa thuần nhất, ngôn ngữ thuần nhất đã là đại biểu cuối cùng và duy nhất của Việt tộc. Cái mệnh vận đặc biệt ấy của dân tộc Việt Nam không phải là một sự ngẫu nhiên. Cái sứ mệnh lịch sử của nó là một phần do giang sơn, hay điều kiện khách quan về kinh tế địa dư chế độ, phong tục ngôn ngữ tập trung lại mà ngấm ngầm ấn định.

Và cái giang sơn ấy không phải là cái xác vô hồn ngoài những điều kiện khách quan bên ngoài, nào ngôn ngữ với chủng tộc kinh tế với chính trị còn cần một yếu tố quyết định ấy là ý thức sứ mệnh lịch sử, ấy là ý thức về quốc gia dân tộc, ấy là quốc hồn, quốc tuý của dân tộc Việt. Cái hồn ấy là sinh lực vô hình nhưng linh động, một mạch miên tục từ đời Hùng cho tới ngày nay, khác nào dòng Cửu Long từ nguồn suối Tây Tạng khi xuyên sơn âm thầm, khi bộc lộ như thác ghềnh, khi quanh quất sườn đồi khi lờ đờ trong đồng nội, mỗi ngày mỗi mở rộng cho tới khi hoà nước ngọt của lục đía Á tế Á với nước mặn của biển Thái Bình Dương tìm đường thông đồng với toàn thể thế giới.

Vậy thì hồn nước ở đâu, để biết bao kẻ gọi hồn. Phải chăng hồn nước là sông núi, nhưng sông núi không có người thì đất hoang rừng rậm!

Phải chăng hồn nước ở Xã tắc, nhưng xã tắc không người hương khói thì chỉ thấy nhện căng dế khóc.

Phải chăng hồn nước ở kinh tế, ở chính trị, nhưng kinh tế và chính trị chỉ là những phương pháp tổ chức và điều khiển, nếu không có người ý thức chỉ huy, nếu không được nhân dân góp sức nhiệt thành thì phương pháp có khoẻ mấy, nước cũng lìa tan, dân cũng điêu đứng!

Phải chăng hồn nước ở nhân dân nhưng nhân dân không ý thức thì:

Chưa chan máu quốc nước vẫn vô hồn
Xao xác tiếng gà trời mù mịt tối.

Vậy hồn nước là ở cái ý thức chung của đoàn thể, cái ý thức quốc gia dân tộc khi xã hội còn đơn giản thì tượng trưng là thần vật tổ. Khi đã trưởng thành tự giác thì tượng trưng là sơn hà xã tắc, là Đế là Quân, và ngày nay chủ quyền phân hóa Dân vi quý thì là ý thức quốc gia dân tộc, ý thức sáng suốt thì nước được vẻ vang, ý thức mù quáng thì nhà tan nước mất.

GS Nguyễn Đăng Thục
anviettoancau

Trả lời

Điền thông tin vào ô dưới đây hoặc nhấn vào một biểu tượng để đăng nhập:

WordPress.com Logo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản WordPress.com Đăng xuất /  Thay đổi )

Facebook photo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản Facebook Đăng xuất /  Thay đổi )

Connecting to %s

Trang web này sử dụng Akismet để lọc thư rác. Tìm hiểu cách xử lý bình luận của bạn.