074. Huyền thoại lập quốc ở Việt Nam, Trung Hoa, Hàn Quốc, Nhật Bản

Lời dẫn: chúng tôi đăng bài viết này nhằm mục đích cung cấp thêm cho bạn đọc thông tin về các huyền thoại lập quốc của người Trung Hoa, tuy nhiên về vấn đề Thần Nông, có nhiều cơ sở hơn để cho rằng đây là vị Tổ trực tiếp của tộc Việt hơn là của người Hoa Hạ, ông cũng xuất hiện trong huyền thoại lập quốc của người Việt mà bài viết này không nhắc đến. Người Hoa Hạ trong quá trình đồng hóa người Việt đã sáp nhập Thần Nông vào hệ thống thần thoại của mình, trở thành hai vị Tổ kép và Viêm-Hoàng, có nghĩa là Viêm Đế và Hoàng Đế, Hoàng Đế mới là Tổ trực tiếp của họ. 

Huyền thoại là khái niệm thuộc phạm trù văn hoá, ra đời từ buổi “khai sinh” của loài người và đến nay vẫn tồn tại. Một cách tự nhiên, huyền thoại đã tạo thành dòng chảy xuyên suốt và bất tận, từ cổ chí kim, từ Đông sang Tây. Có nhiều cách hiểu khác nhau về huyền thoại. Từ cách tiếp cận của mình, chúng tôi quan niệm: huyền thoại là những câu chuyện kỳ lạ, hoang đường nhằm giải thích hiện tượng có tính chất bí ẩn, sâu xa thuộc về tự nhiên, xã hội và con người.

Trên cơ sở đó, với bài viết Huyền thoại lập quốc ở Việt Nam, Trung Quốc, Hàn Quốc và Nhật Bản, chúng tôi sẽ tập trung nghiên cứu những câu chuyện trong thần thoại, truyền thuyết về quá trình dựng nước của bốn quốc gia theo tâm thức dân gian (truyện kể). Căn cứ vào các truyện kể (cũng là huyền thoại) này, chúng tôi từng bước bóc tách màn sương huyền ảo đã phủ lên hiện thực lịch sử của bốn dân tộc trong “cái thuở ban đầu” dựng xây đất nước, xem mỗi quốc gia có dấu ấn gì độc đáo; đồng thời, tìm ra điểm tương đồng, gặp gỡ của bốn quốc gia – vốn được coi là các nước “đồng chủng đồng văn”.

1.1. Trước hết, để có những ý niệm chung về huyền thoại lập quốc của Việt Nam, Trung Hoa, Hàn Quốc và Nhật Bản, chúng ta cần tiếp cận hệ thống truyện kể dân gian các nước – trước hết là truyện kể dân gian Việt Nam.

Nói tới huyền thoại lập quốc ở Việt Nam, không thể không nhắc đến truyện Con Rồng cháu Tiên (hay Lạc Long Quân và Âu Cơ), bởi đây là một trong những sự tích cổ nhất và hấp dẫn nhất của người Việt.

Truyện kể rằng: Lạc Long Quân vốn tên Sùng Lãm, con trai của Kinh Dương Vương và Long Nữ (thủ lĩnh vùng đất Lĩnh Nam). Chàng là người thần, khoẻ mạnh, tuấn tú, đặc biệt “có tài đi lại dưới nước như đi trên cạn”. Với sức mạnh phi thường của thần Rồng – thần Nước và lòng thương yêu nhân dân, Lạc Long Quân đã một mình diệt trừ Ngư Tinh, Hồ Tinh, Mộc Tinh – những loài yêu quái hiểm ác và lại tự mình, thần dạy dân biết cách trồng lúa, ăn ở, đem lại cho họ cuộc sống yên ả, thanh bình.

Âu Cơ – con gái yêu của Đế Lai phương Bắc là cô gái “nhan sắc tuyệt trần”, “một nàng tiên xinh đẹp giữa chốn trần gian”… Cha nàng thấy Lĩnh Nam phong cảnh tươi đẹp, có nhiều chim muông, nhiều gỗ quý đã đem quân từ phương Bắc tràn xuống định chiếm lĩnh phương Nam. Ông có ngờ đâu người con gái yêu của mình “thấy Long Quân uy nghi, tuấn tú” đã đem lòng say mê, xin theo và Lạc Long Quân đã đưa Âu Cơ về cung của mình trên núi cao. Tình yêu mãnh liệt và lớn lao ấy đã gắn kết, hòa hợp họ lại. Cả hai cùng chung sống những tháng ngày hạnh phúc với tổ ấm thân thương và kỳ diệu của mình: “Lạc Long Quân ở với Âu Cơ được ít lâu thì Âu Cơ có mang sinh ra được cái bọc. Sau bảy ngày, cái bọc nở ra một trăm quả trứng. Mỗi trứng nở một người con trai. Trăm người con trai đó lớn lên, tất cả đều thông minh, khoẻ mạnh tuyệt vời“.

Một cuộc kỳ duyên đã đem đến một cuộc sinh nở lạ lùng. Từ bọc trăm trứng ấy, từ mái nhà của cha Rồng – mẹ Tiên, một trăm người con đã chia nhau trị các nơi, năm mươi con về miền biển, năm mươi con về miền núi, “nếu gặp sự gì nguy hiểm thì báo cho nhau biết, cứu giúp lẫn nhau”. Trăm người đó trở thành tổ tiên của người Bách Việt. Người con trưởng ở lại đất Phong Châu, được tôn là vua nước Văn Lang lấy hiệu là Hùng Vương [1].

Đó là “Lang Liêu có hiếu có tài nghĩ ra cách làm bánh chưng, bánh dày mà mãi đến ngày nay không người Việt nào mà không yêu thích”. Đó là nàng Tiên Dung con vua Hùng Vương nhưng trái tim vẫn rung động và mãi dành cho chàng trai đánh cá họ Chử tình yêu nồng nàn. Công chúa Mị Nương “lá ngọc cành vàng” song vẫn vâng lệnh vua cha theo chàng trai về núi Tản. Đó còn là Mai An Tiêm, thoái lời vua cha ra đảo hoang sinh cơ lập nghiệp, trồng nên đó thứ dưa đỏ đẹp, ngon miệng đến muôn đời.

Rõ ràng, với những nội dung nói trên, chúng ta nhận thấy rằng có rất nhiều sự kiện được tác giả dân gian gửi gắm trong những câu chuyện giàu hình ảnh, biểu tượng. Nhưng dẫu sao, trong nhiều sự kiện ấy, vẫn nổi lên những vấn đề cốt lõi. Ở góc độ này, chúng tôi nhất trí với nhà nghiên cứu Cao Huy Đỉnh khi ông cho rằng toàn bộ thời kỳ Hùng Vương, nổi bật hai sự kiện chính: chống lũ lụt và chống ngoại xâm. Sự kiện thứ nhất đã chuyển thành hình tượng Sơn Tinh diệt Thuỷ Tinh được tác giả dân gian sáng tạo trong truyền thuyết cùng tên. Sự kiện thứ hai chuyển thành hình tượng ông Gióng diệt giặc Ân trong truyện Thánh Gióng. Cùng cần lưu ý rằng, để cho hoàn chỉnh, người viết bổ sung thêm truyền thuyết An Dương Vương xây thành bởi theo giáo sư Lê Chí Quế, đây là “âm vang cuối cùng của bản tình ca dựng nước, mở đầu tấn bi kịch nước mất nhà tan”[2].

Từ mô hình lập quốc mà chúng tôi vừa phác thảo ở trên, có thể rút ra những kết luận về sự xác định địa bàn cư trú của người Việt, về đất mẹ quê cha, về dòng dõi cội nguồn. Về dòng dõi cội nguồn: Người Việt luôn tự hào là con Rồng, cháu Tiên, là con của mẹ Âu Cơ xưa kia và bố Rồng Lạc. Về địa bàn cư trú: Người Việt xưa kia coi sông nước và núi non là không gian sống của mình (qua chi tiết Âu Cơ đưa 50 con lên núi, Long Quân mang 50 con xuống biển). Về mảnh đất mẹ cha: chúng ta phải luôn đối mặt với nhiều nạn lớn – tiêu biểu là lũ lụt và kẻ thù ngoại xâm.

Bởi chính có những câu chuyện kia, bởi chính là có truyền thuyết giải thích và nguồn gốc dân tộc, về việc chúng ta phải đánh giặc, phải chống lũ lụt… mà giúp những con người hôm nay hiểu hơn về con người ngày hôm qua – dầu cho họ chỉ như những “đứa trẻ thơ của nhân loại”, nhưng từ trong bản chất lại sáng lên “vẻ đẹp tuyệt vời”: Vẻ đẹp của tình cảm yêu nước thương nòi; của ý thức dân tộc về sự độc lập nước nhà; về tinh thần đoàn kết, ý chí tự cương vươn lên trong cuộc sống… Tất cả đều được in dấu đậm nét trên những trang huyền thoại lấp lánh sắc màu.

Huyền thoại lập quốc ở Việt Nam dù còn nhiều điều hư ảo nhưng chúng ta vẫn có thể qua đó để hiểu biết về thời hoài thai của mặt đất và dựng nước của ông cha. Sang thế giới huyền thoại của Trung Hoa, người ta cũng nhận thấy nhiều điều thú vị.

1.2. Huyền thoại lập quốc ở Trung Hoa do nhiều nguyên nhân nên không mang tính hệ thống. Các học giả Trung Hoa thường cho rằng giai đoạn khởi nguyên trong lịch sử của họ gắn với thời Tam Hoàng Ngũ Đế. Vấn đề này còn nhiều tranh cãi. Chúng tôi tạm quan niệm thời Tam Hoàng Ngũ Đế gồm các nhân vật: Bàn Cổ, Phục Hy, Nữ Oa, Chuyên Húc, Thần Nông, Hoàng Đế, Nghiêu, Thuấn. Với cách sắp xếp như vậy, chúng tôi có mô hình lập quốc ở Trung Hoa.

Huyền thoại kể rằng, từ xa xưa, đã lâu lắm rồi, vũ trụ là một quả trứng khổng lồ, rồi sau năm 1800 năm hoài thai, Bàn Cổ được sinh ra từ đó. Với nhát rìu của mình, ông đã phân chia vũ trụ thành trời, đất. Và để cho sự cách biệt ấy rõ ràng, ngài lại mất thêm một vạn tám nghìn để xây thêm cái trụ chống trời vững chắc. Công việc ấy hoàn thành, ít lâu sau thì Bàn Cổ chết. Khi ngài qua đời, mắt trái biến thành mặt trời, mắt phải biến thành mặt trăng, máu thần biến thành sông lớn, sông nhỏ, thịt và mỡ thần biến thành điền thổ phì nhiêu. Và đời sau, người ta đã nhất trí với nhau: “ấy là vị thần đã có công khai thiên lập địa cần phải được tôn sùng” – bởi vì ngài đã hiến dâng tất cả thân thể của mình để làm trần thế phồn vinh và mỹ lệ.

Sau khi Bàn Cổ (lập ra trời đất), Nữ Oa lại sáng tạo ra loài người. Từ đó, vũ trụ là sự thống nhất giữa trời và đất, trong đó Vua Vàng (Hoàng đế) cai quản bốn phương. Mỗi phương lại có một bậc đế vương để cai trị. Phục Hy là vị thiên đế phương Đông, Thần Nông (Viêm đế) là vị thiên đế cai quản vùng nóng nực phương Nam, Thiếu Hạo là vị thiên đế phương Tây, Chuyên Húc là thiên đế phương Bắc,… Vua Nghiêu, Thuấn lại đảm nhiệm công việc dưới trần gian. Tất cả đều hài hoà tạo nên một quốc gia đa dạng, thống nhất – mà ở đó, mỗi ông vua đều để lại dấu ấn rất rõ. Các ngài dầu đảm nhiệm các vị trí khác nhau nhưng lại cùng nhau kiến tạo đất nước. Phục Hy tìm ra lửa, vạch ra bát quái, chế tạo ra đàn và lưới đánh cá… đưa người dân vào quỹ đạo cuộc sống; Hoàng Đế đánh Xuy Vưu diệt trừ cái ác, đem đến sự yên ổn cho dân lành. Thần Nông lại dạy dân trồng ngũ cốc, cày ruộng mà sinh sống; Chuyên Húc làm thần – người cách ly, người – người phân biệt, đặt ra lễ giáo, pháp luật trọng nam khinh nữ. Vua Vũ trị thuỷ; Thuấn, Nghiêu chất phác, yêu thương dân lành. Mỗi vị thống lĩnh một xứ nhưng đều có công lao lớn và nhân đức sáng ngời.

Qua huyền thoại trên, chúng tôi nhận thấy rằng ngay từ thời sơ sử, Trung Hoa đã hiện ra là một tổ chức xã hội có quy củ. Trong xã hội này tôn ti trật tự được coi trọng, hình phạt nghiêm khắc, kỷ cương bền chặt, rõ ràng. Cả thiên giới lẫn trần gian đều có người đứng đầu, đảm đương mọi việc. Mỗi người ấy lại có riêng một người phụ tá tài giỏi, hiền lành. Kẻ phụ tá Phục Hy là Câu Mang, phụ tá Thần Nông là hoả thần Chúc Dung, phụ tá Thiếu Hạo là kim thần Nhục Thu, phụ tá Chuyên Húc là thuỷ thần Huyền Minh. Cứ nhìn vào bức phác thảo ấy, ta thấy từ thời xa xưa, Trung Hoa đã hình thành nếp tư duy về tính trật tự, về quan hệ vua – tôi (quân – thần).

Ngoài ra tiếp cận với huyền thoại lập quốc ở Trung Hoa, chúng tôi hiểu rằng, ngay từ thời xa xưa, đất nước này đã phát triển tuần tự qua nhiều giai đoạn khác nhau, mỗi giai đoạn được đánh dấu bằng những phát minh quan trọng gắn với tên tuổi từng nhân vật kiến tạo. Phục Hy dạy cho dân tộc hôn lễ, âm nhạc, kết dây, đan lưới, nuôi gia súc, nấu chín thịt trước khi ăn. Những sự kiện này gợi cho ta ý niệm về quá trình chuyển từ trạng thái săn bắn tiến lên trạng thái chăn nuôi du mục.

Sau khi Phục Hy qua đời, ông truyền lại ngôi cho Thần Nông. Thần Nông sáng chế ra lưỡi cày bằng gỗ, tổ chức họp chợ, giao dịch đổi trao sản phẩm lao động. Ngoài ra, ông còn kiếm nhiều thứ cây để trị bệnh cho người. Chúng tôi đồ rằng đây là thời đại loài người đang tiến lên trình độ canh nông.

Tiếp theo dòng chảy này là thời kỳ tương ứng với “đồ gốm đen và đồ gốm màu” ở Trung Hoa. Nó gắn với truyền thuyết về Hoàng Đế, Nghiêu, Thuấn. Điều đó chứng tỏ, ngay từ thuở bình minh, ở nơi đây, dấu ấn nghề nghiệp đã khá rõ ràng.

Với điều quan trọng – đúng như tên gọi của nó, qua “huyền thoại lập quốc” ở Trung Hoa, chúng ta có được hình dung bước đầu về cái mô hình nhà nước cụ thể, về một xã hội đại đồng mà ở đấy con người được tự do, bình đẳng về mọi mặt. Đó là hình ảnh nước Hoa Tư với cuộc sống mỹ mạn, khoái lạc. Đó là hình ảnh nhân dân no ấm, đủ đầy thời Viêm Đế. Đó là hình ảnh phố xá, thị trấn mọc lên khắp nơi trong thời vua Nghiêu. Xem ra, thần thoại Trung Hoa rất “ăn khớp” với “hình thể của một tổ chức xã hội” như một nhà nước lý tưởng. Một khao khát, mơ ước của con người thời xưa.

Huyền thoại Trung Hoa khép lại, nhưng những hình dung về đất nước, về con người cổ xưa như vẫn còn thấp thoáng đâu đây. Bước sang tìm hiểu huyền thoại lập quốc ở xứ Kim Chi, chúng ta lại được nghe những câu chuyện kỳ diệu.

1.3. Buổi đầu trong lịch sử Hàn Quốc được đánh dấu vào năm 2333 TCN khi vua Tangun lập ra vương quốc đầu tiên mang tên Choson.

Huyền thoại kể rằng: xưa có một thần là hoàng tử tên gọi Huanung, con của vua Huanin (thần nhà trời) được vua cha cho phép đã cùng với 3000 người xuống mặt đất để cai quản trần gian.

Huanung hạ xuống gần một khu rừng gỗ đàn hương thiêng liêng trên rừng T’aeback (Thái Bạch), rồi tự xưng là Thiên Vương (tức vua nhà trời). Sau đó, ông chỉ định ba thương thủ phụ trách gió, mưa, mây; đồng thời dạy dân 360 nghề có ích gồm nghề nông, nghề y, mộc, dệt, đánh cá… Hoàng tử cũng đã dạy cho dân biết phân biệt thiện ác và đặt ra một bộ luật để duy trì cuộc sống cõi dương gian.

Thuở ấy, gần nơi Huanung ngự trị, có một con gấu và một con hổ sống chung trong hang núi. Ngày nào chúng cũng gặp Huanung để cầu xin được làm người. Huanung đồng ý, gọi chúng lại, đưa cho chúng 20 củ tỏi và một nắm ngải cứu thiêng, giao ước rằng: “ở trong hang sâu, không ra ngoài nắng, 100 ngày ăn tỏi và ngải thiêng thì sẽ biến thành người”.

Gấu và Hổ vui mừng trở về hang động, ăn tỏi và ngải cứu rồi cùng nhau thực thi điều kiện mà Huanung đặt ra. Nhưng Hổ không đủ kiên nhẫn để chịu đựng sự thử thách này và rời hang trong một thời gian ngắn. Còn gấu thì kiên trì chờ và chỉ sau 21 ngày đã trở thành một cô gái xinh đẹp sống giữa trần gian, nhưng chỉ có một mình. Nàng rất buồn và lại một lần nữa đến gốc cây linh đàn xin Huanung được mang thai. Một thời gian sau Huanung trở thành chàng trai đạo mạo và kết hôn với cô gái tên Gấu, sinh được một người con trai đặt tên là Tangun. Tangun lập nước Choson, sau trở thành thần Núi.

Trên đây là thần thoại cổ nhất của Hàn Quốc và mọi vấn đề đều được “mã hoá” trong huyền thoại này (chúng tôi sẽ trình bày ở phần sau).

Không biết triều đại Choson tồn tại được bao lâu, chỉ biết rằng cho đến khoảng đầu công nguyên, nhiều bộ lạc trên bán đảo Hàn thống nhất lại với nhau hình thành nên 4 vương triều: Koguryo ở phía Bắc, Peakche ở phía Tây Nam, Silla ở Đông Nam, nằm giữa Peakche và Silla và Kaya. Ở mỗi vương quốc đều có những huyền thoại của mình.

Huyền thoại Koguryo kể rằng vua Keumwa một hôm đi săn gặp nàng Yoo Wua (Liễu Hoa). Vua đưa nàng về cung, một thời gian thì nàng sinh được quả trứng to bằng 5 cái đấu. Lúc đầu, mọi người đều sợ hãi, nhưng ít lâu, từ trứng bước ra là một cậu bé khôi ngô, tuấn tú, đặt tên là Choomong. Choomong tài giỏi lại được vua cha yêu mến nên bị các hoàng tử con vua hãm hại. Chàng bỏ đi, trốn đến Eum Soo (bây giờ là vùng Đông Bắc Áp Lục Giang), qua một con sông, sang bờ bên kia rồi dừng lại xây một quốc gia mới tên là Koguryo.

– Huyền thoại Kaya lại kể về câu chuyện sáu người con được sinh ra từ cái bọc gồm 6 quả trứng màu vàng. Sau này, toàn bộ số họ chia nhau cai quản sáu vùng của đất nước Kaya. y Huyền thoại về vương quốc Peakche (Bách Tế) được dân gian tưởng tượng bằng chi tiết đứa bé Yoori đi tìm cha (chính là đức vua Choomong). Qua bao gian nan thử thách, chàng tìm được báu vật, yết kiến và được phong làm thiên tử. Nhưng ngoài Yoori, khi đến Chubon (Tốt Bản), vua còn sinh được hai người con nữa. Trước tình hình ấy, họ quyết định tìm nơi khác để định cư. Biury (người anh) chọn nơi “đất lành chim đậu” – gần núi Book-a – ak – san (Bắc Hà San), lập ra nước Bách Tế muôn đời.

– Cuối cùng là huyền thoại Silla: Ở huyền thoại này không có người cha con Trời, cũng không có giọng nói trực tiếp thông báo ý trời, nhưng cặp song sinh Ngọc Đồng Tử và Ngọc Đồng Nữ (sau này chính là vua Park Huyek Keose và hoàng hậu Alyoung – người sáng lập ra triều đại Silla) lại được sinh ra từ bào thai của người mẹ – thánh mẫu Saso – một phụ nữ có năng lực thánh thần.

Thông qua việc tóm tắt các huyền thoại trong lịch sử Hàn Quốc, chúng tôi nhận thấy nổi lên một số vấn đề sau:

Ngay từ thời cổ xưa, trên bán đảo này đã có một không gian văn hoá khá hoàn chỉnh, định hình. Đó là một thế giới tự nhiên bao gồm Núi – Sông – Biển – Hồ, vừa đa dạng, vừa phù hợp với cư dân nơi đây trong việc canh tác, cấy cày, trồng trọt để phục vụ nghề nông, đảm bảo cuộc sống và sự sinh tồn trong buổi đầu tiên khi con người còn phụ thuộc nhiều vào tự nhiên. Trong hệ thống Núi – Sông – Biển – Hồ ấy thì núi non vẫn là chủ đạo. Núi là nơi đầu tiên Huanung đặt chân xuống trần gian cai trị loài người, núi là nơi gặp gỡ và kết hôn giữa chàng và nàng Gấu, núi cũng là nơi sau này khi Tangun cai quản đất nước được 1.500 năm rồi lên đó ở ẩn, trở thành thần núi. Núi non còn là địa bàn cư trú của nhiều vương quốc cổ ở Hàn Quốc. Điều này có liên quan đến cảnh quan địa lý nơi đây. Bởi cả bán đảo Hàn chạy dọc từ Bắc xuống Nam hàng ngàn cây số thì đất đai có đến 70% là núi đồi.

Và thuộc về “giang san” ấy là những ông vua. Ở Hàn Quốc, các đời vua – ngoài nguồn gốc thiên giới – còn có nhiều tình tiết ly kỳ (để tăng sức hấp dẫn): sự sinh nở thần kỳ, sự kết hôn thần kỳ, và những môtíp thử thách thần kỳ. Đằng sau những cái “kỳ” ấy là ý niệm giàu trí tuệ của người xưa trong việc phác thảo ra bức chân dung tinh thần của vị vua mà nhân dân trên bán đảo Hàn Quốc tôn sùng. Đối với họ, vua vừa phải là người có tài năng, nhưng đồng thời luôn nỗ lực, vượt qua thử thách thì mới vươn đến đỉnh cao của đời sống, mới có năng lực giao cảm với thánh thần. Về phương diện này, ý niệm bên kia ngoài ước mơ còn liên quan đến loại tín ngưỡng Shaman rất lâu đời. Tín ngưỡng này biểu hiện sự cộng cảm giữa con người với thế giới tự nhiên và các lực lượng siêu nhiên (giống hiện tượng hát Then của người Tày và lên đồng của người Kinh ở Việt Nam). Song việc biến khát vọng, khả năng ấy vào một số con người đặc biệt – khi sự tu luyện đạt đến mức độ nào đấy sẽ hiểu được thánh thần – thì chỉ thấy nổi bật lên đậm nét ở Hàn Quốc. Và trong đời sống hiện đại, tín ngưỡng ấy vẫn còn, thậm chí nó là tâm thức toàn dân.

Và cũng như Hàn Quốc, người dân trên quần đảo Nhật Bản xưa cũng tưởng tượng ra những câu chuyện thú vị về quá trình sáng thế và lập quốc của mình.

1.4. Huyền thoại Nhật kể rằng: lúc đầu vũ trụ là một quả trứng âm u, tăm tối. Thế rồi một ngày kia, 8000 vị thần linh trên thế giới bàn nhau sáng tạo ra cõi trần để gửi gắm mọi sự che chở và yêu thương, mọi niềm vui và nỗi buồn trong đời sống. Hai vị thần đầu tiên được phái xuống mặt đất là nam thần Izanaghi và nữ thần Izanami. Họ gặp gỡ nhau, kết hôn, nên vợ nên chồng. Và từ cuộc tình thơ mộng ấy, họ sinh ra được những đứa con đẹp nhất – đó chính là quần đảo Nhật Bản mà chúng ta thấy bây giờ. Hai thần cùng  đặt chân xuống đảo Ônôgôrô và bắt tay dựng trụ trời, xây nhà ở trên quê hương mới. Mọi sự sống bắt đầu từ đây: cỏ cây, hoa lá, núi, đất, sương mù… đã lần lượt hiện ra trên thế gian.

Nhưng hai thần linh vẫn cảm thấy không gian quanh mình sao trống vắng là vậy. Họ nói với nhau: “Bây giờ, chúng ta đã sản sinh ra xứ sở của tám hòn đảo này cùng với núi sông, cây cỏ. Vậy tại sao không sinh ra ai đó sẽ là chúa tể của vũ trụ này?”

Thế là họ sinh ra nữ thần mặt trời, gọi là Amaterasu. Ánh sáng của đứa bé chiếu khắp nơi: Bắc, Nam, Đông, Tây, Trên, Dưới. Sự sống nảy mầm đối với vạn vật và con người.

 Từ sau nữ thần mặt trời, các thiên hoàng thay nhau cai trị trần gian, mở đầu là thiên hoàng Jimu.

Nối theo Jimu, các Thiên Hoàng ở các thời kỳ sau tiếp tục hoàn thành công việc chính trị của mình. Dù thời gian và bối cảnh lịch sử khác nhau, nhưng các Thiên Hoàng ấy đều xuất thân từ một dòng dõi có nguồn gốc thần linh. Họ duy trì sự thống trị của mình suốt mấy nghìn năm lịch sử ghi lại thì Nhật Bản gồm 124 đời liên tục nối tiếp nhau.

Trên đây là những sự kiên quan trọng nhất liên quan đến huyền thoại lập quốc ở Nhật Bản. Trong mô hình này, chúng tôi thấy nổi lên đặc điểm đầu tiên là việc xuất hiện của rất nhiều các vị thần. Ngoài 8000 vị thần linh được phôi thai từ quả trứng – vũ trụ thì có hàng loạt các thần đã tham gia trực tiếp vào việc cấu tạo thế giới: hai thần Izanaghi và Izanami sáng tạo ra quần đảo Nhật, thần mặt trăng, mặt trời, dông bão làm hoàn chỉnh thêm bức tranh về sự tạp lập thế giới. Thần tư tưởng, sức mạnh nghệ thuật như là sự bổ sung cho đời sống tinh thần của người dân nơi đây. Thực ra, tín ngưỡng đa thần giáo là “mẫu số chung” cho cả loài người buổi sơ khai, nhưng phải nói ở Nhật Bản đó là dấu hiệu kỳ diệu. Nó đã trở thành tín ngưỡng, tôn giáo của con người nơi đây – trong quá khứ và cả hôm nay vẫn còn tồn tại – để hình thành nên cái mà người ta thường gọi là Thần đạo Nhật Bản. Trong tiếng Nhật, chữ dịch từ Thần là Kami – nghĩa ban đầu là Trên, sau mở rộng ra thành từ chỉ những gì cao hơn, thiêng liêng và tốt đẹp hơn. Nếu là con người, thì người đó phải có năng lực, sức mạnh và phẩm chất hơn bình thường. Bởi vậy, mỗi người dân Nhật đều tin những ai được thần thánh tin cẩn nhất thì được quyền cai quản đất nước – ở Nhật, đó là quyền lực tối cao của các vị Thiên Hoàng.

Cũng cần lưu ý rằng, không phải ngẫu nhiên, trong huyền thoại lập quốc của Nhật Bản, lại có sự kiện kể về sự giận dỗi của thần mặt trời (Amaterasu) mà trần gian trở nên tăm tối. Sau đó, để ánh sáng trở lại được phải kể đến công lao của ba vị thần: tư tưởng, sức mạnh và nghệ thuật. Chính họ đã bàn mưu tính kế để thúc đẩy thần đi ra khỏi Thiên Nam Động, trả lại ánh sáng cho vạn vật và muôn người. Chi tiết này gửi gắm nhiều điều sâu kín. Nhật Chiêu trong cuốn: Văn học Nhật Bản từ thời khởi thủy đến năm 1868 đã viết: “Cái đẹp, tư tưởng và sức mạnh là linh hồn của văn hoá. Chúng đã được mã hoá trong huyền thoại mặt trời và đến nay, các yếu tố ấy vẫn còn nguyên lý của đời sống Nhật Bản… cuộc sống của một dân tộc, của nhân loại cần có đầy đủ ba ngôi ấy[3]. Quả thực như vậy, con người – dù ở nơi đâu trên hành tinh – luôn cần đến tư tưởng, sức mạnh, nghệ thuật. Chỉ có điều ở Nhật Bản, ngay buổi sơ khai – trong huyền thoại đã nêu ra triết lý này.

Tiếp theo, trong huyền thoại Nhật, chúng tôi thấy thiên nhiên định hình ngay từ buổi đầu. Truyện kể rằng sau khi Izauagi và Izanami kết hôn với nhau, đã sinh ra những hòn đảo xinh xắn “hiện ra dưới mặt trời mọc”. Dân gian còn miêu tả: “Trên đó, lững lờ trôi các con suối và nhấp nhô núi đồi, theo từng mùa mà trắng tuyết hay đỏ rực lá cây phong. Trên đó có hoa  anh đào và chim chóc, có cả những con người đầu tiên”.

Đây thực sự là khung cảnh lãng mạn, tuyệt vời, một không gian đậm chất trữ tình đằm thắm, nó như đã nói lên tất cả về thiên nhiên Nhật với bốn mùa đều đặn xuân, hạ, thu, đông. Tất cả đã nói lên một tình cảm mạnh mẽ đối với cái đẹp và cái giàu có ở môi trường xung quanh người Nhật cổ xưa. Vì vậy, muốn hiểu về lịch sử nước Nhật, con người Nhật không thể bỏ qua những đặc điểm về thiên nhiên.

Thiên nhiên Nhật tươi đẹp là vậy, nhưng nếu xét về phương diện địa lý thì tính chất đảo lại quy định nhiều đến tính cách người Nhật – họ sống khá kín đáo, luôn cảnh giác với bên ngoài. Tính chất đảo còn ảnh hưởng đến phòng thủ quân sự, làm cho Nhật trong lịch sử tránh được nhiều cuộc ngoại xâm, song mặt khác nội chiến nhiều. Trong huyền thoại, cuộc tranh giành giữa nữ thần mặt trời và em trai mình, cuộc đọ sức giữa hai anh em Hôôri và Hôđôri thực chất là cuộc tranh giành giữa các bộ tộc, bộ lạc với nhau nhằm củng cố quyền lực, trong đó quyền lực sẽ thuộc về phái mạnh hơn, đã đạt được chiến thắng.

Tìm hiểu huyền thoại lập quốc ở Nhật Bản, chúng tôi không thể vẽ nên bức tranh hoàn chỉnh, đủ đầy. Song vẫn tin rằng với “chiếc gương” nhỏ này, ta hãy còn tìm thấy một vài điều đặc biệt nào đó – mà dấu ấn của nó vẫn tạo thành mạch ngầm chảy mãi trong đời sống Nhật Bản hiện đại hôm nay.

2.1. Từ việc dựng lại mô hình lập quốc của 4 nước Việt Nam, Trung Hoa, Hàn Quốc Nhật Bản, chúng tôi có tiền đề đi vào so sánh sự tương đồng và dị biệt của chúng trên một số phương diện.

– Khuynh hướng lịch sử hoá huyền thoại.
– Cảm hứng ngợi ca những nhân vật có công kiến tạo đất nước.
– Cảnh quan địa lý, dấu ấn nông nghiệp.
– Mô típ quả trứng khởi thuỷ, Môtíp loạn luân.

2.1.1. Khuynh hướng lịch sử hoá huyền thoại.

Cả Trung Hoa, Việt Nam, Hàn Quốc, Nhật Bản đều đi theo xu hướng này.

– Ở Trung Hoa, thần thoại nằm rải rác trong các cuốn sách ghi chép sau này như Kinh, Sử, Tử, Tập… Mục đích của nó xuất phát từ quá trình thu thập của Khổng Tử khi ông sáng tạo ra học thuyết Nho gia của mình. Thông qua các tấm gương thời tiền sử (chủ yếu là Nghiêu, Thuấn, Vũ), Khổng Tử bày tỏ tấm lòng ngưỡng vọng và cho đó là đấng tối cao đời sau cần noi theo. Qua đấy, ông cũng coi như là một phương diện để răn đe, giáo hóa thiên hạ, sống phải có trật tự trên – dưới, trước – sau, có đức độ sáng ngời.

– Ở Việt Nam, công việc ghi chép xuất hiện từ những năm đầu của thời tự chủ (thế kỷ X – XI), nhưng văn bản còn lưu lại phải kể đến: Việt điện u linh của Vũ Quỳnh – thế kỷ XIV và Lĩnh Nam chích quái do Kiều Phú biên soạn. Ngoài ra, phải kể đến bộ Đại Việt sử ký toàn thư của Ngô Sĩ Liên và Dư địa chí của Nguyễn Trãi… Mục đích của sự ghi chép này nhằm nâng cao ý thức tự hào dân tộc, chống lại âm mưu đồng hoá của kẻ thù.

– Ở Hàn Quốc, người ta thấy xu hướng lịch sử huyền thoại có phần giống Việt Nam. Vào thế kỷ XIII, nhân dân nước này cũng chịu ách đô hộ của đế quốc Nguyên Mông. Cả nước Hàn chìm trong cơ cực, dân chúng bị giết hại, cướp bóc của cải, bị bắt làm tù binh, điêu đứng, khốn khổ: “Vua Kororyo lúc đó đã buộc phải cưới công chúa Mông và người Hàn phải để tóc theo kiểu ngoại bang, đồng thời bị cấm mặc trang phục theo truyền thống của mình”[4]. Trước tình hình ấy, thiền sư Iryon không đành lòng, ông tập hợp các tài liệu sử của Trung Quốc và các cuốn sử trước đó để hoàn chỉnh tác phẩm của mình mang tên SamgukayusaTam quốc lưu sử. Bởi vậy, tính chất biên niên sử của cuốn sách này khá rõ. Trong quá trình ghi chép, Iryon luôn có ý thức đánh dấu lại bằng những triều đại với năm tháng cụ thể và gắn với quá trình giải thích về sự ra đời của các vương triều. Ngoài độ chính xác, Iryon còn luôn có ý thức khẳng dịnh sự đối sánh ngang bằng của dân tộc mình, đất nước mình với những ông vua và các hoàng đế lớn Trung Hoa.

– Chuyển sang đất nước của xứ sở mặt trời mọc, khuynh hướng lịch sử hoá huyền thoại được thể hiện đậm đà trong hai cuốn Kojikii (Cổ sự ký)Nihohi (Nhật Bản ký). Hai cuốn này được Yasumarô – một trong các học giả ưu tú nhất thời biên soạn vào năm 712. Lúc đó, ở Nhật Bản có tình trạng một số thị tộc có ham muốn chống đối lại quyền lực của Thiên Hoàng. Yasumarô làm công việc đó nhằm mục đích “theo xưa định lại lề luật cũ”. Do vậy mà ngai vàng của Thiên Hoàng đã không bị lung lay.

Tóm lại, khuynh hướng lịch sử hoá huyền thoại là khuynh hướng phổ biến của bốn quốc gia: Việt – Trung – Hàn – Nhật. Tuy nhiên, do bối cảnh lịch sử không giống nhau và vận mệnh dân tộc có sự khác biệt nên mỗi nước trong con đường chung ấy vẫn có những ngã rẽ độc lập.

2.1.2. Trên đây là đặc điểm đầu tiên chúng tôi rút ra qua huyền thoại các nước. Và đúng như tên gọi của nó, “huyền thoại lập quốc” chỉ là câu chuyện kể về quá trình mở mang, hình thành và xây dựng đất nước của từng quốc gia, nên ngoài khuynh hướng lịch sử hoá huyền thoại, chúng tôi thấy cảm hứng ngợi ca là điểm tương đồng trong nếp nghĩ của dân gian mỗi nước khi suy tư về cha ông, về giống nòi của mình.

– Trước hết, cảm hứng ấy cho rằng mọi đấng bậc sáng tạo hoặc anh hùng đều có nguồn gốc thần linh, nguồn gốc thiên giới. Ở Trung Hoa, không vị vua nào không mang dáng dấp của thần linh. Trong huyền thoại của Việt Nam, dẫu mờ nhạt hơn, nhưng hình ảnh người anh hùng làng Gióng vẫn cho ta thấy đây thực sự là “đứa con” do trời phái xuống. Sau khi giúp dân diệt trừ giặc Ân lại bay về trời. Huyền thoại Hàn, mọi ông vua trước khi lên ngôi đều có tiếng gọi định sẵn từ trên trời ngân xuống như một định mệnh. Huyền thoại Nhật Bản thì rõ ràng sự giáng thế của thần Izanagi và Izanami do “trời phái”.

– Ngoài ra, những người đó còn phải có năng lực phi thường. Ở Trung Hoa, Nữ Oa đội đá vá trời. Tại Việt Nam, Sơn Tinh tạp núi dẹp lũ lụt. Ở Hàn Quốc, vua Choomong có tài bắn cung giỏi. Trên đất Nhật Bản, thần Izanagi và Izanami chỉ cần khuấy nhẹ mặt nước đã tạo thành 8 hòn đảo. Họ là những người hơn người thường tất sẽ đảm đương được công việc vĩ đại.

Có tài năng, họ còn là những người anh minh và đạo đức. Ở Việt Nam, Thánh Gióng sau khi đánh giặc Ân liền bay về trời mà không hề đón nhận một ánh hào quang, một sự ban thưởng nào. Tại Trung Hoa, vua Nghiêu – Thuấn đã cùng ăn, cùng ở, cùng làm với nhân dân. Ở Nhật Bản, Mikôntu mở kênh, xoá bỏ thuế má cho dân lành.

Nói chung, mỗi nước, nhân dân thời cổ xưa đều ca ngợi về bậc tổ tiên, đấng sáng tạo, anh hùng và các vị vua của mình. Qua đó gửi gắm khát vọng, niềm tin của con người vào những nhân vật đủ năng lực để đứng đầu một vương triều hay tham gia vào những sự kiện lớn liên quan đến vận mệnh cộng đồng; nhưng mỗi nước có cách hình dung rất khác nhau.

Tuy nhiên, đã đề cập đến khái niệm “quốc” – dù là trong hồi cố hay tưởng tượng thì vẫn phải gửi gắm với một không gian nhất định. Trên cơ sở như vậy, trong khi tìm hiểu nét gặp gỡ giữa 4 nước Việt – Trung – Hàn – Nhật, chúng tôi cũng đặt ra vấn đề xác định cảnh quan địa lý và dấu ấn nông nghiệp của từng nước.

2.1.3. Cảnh quan địa lý, dấu ấn nông nghiệp

a) Cảnh quan địa lý:

Bốn quốc gia: Việt Nam, Trung Hoa, Hàn Quốc, Nhật Bản đều nằm ở khu vực Châu Á, nên cảnh quan có nhiều điểm giống nhau, đó là sự định hình của không gian văn hoá ở Núi – Sông – Biển – Hồ; đặc biệt, “văn hoá núi đá” đã ảnh hưởng đến nếp tư duy của cư dân cổ xưa.

Ở Việt Nam, mẹ Âu Cơ là tiên trên núi. Mỗi lần nhớ chồng quá lại đứng trên ngọn núi cao hướng về biển Đông cất tiếng gọi. Sau này, núi Nghĩa Lĩnh trở thành kinh đô của Hùng Vương. Rồi cũng không ngẫu nhiên, thánh Tản Viên chọn núi làm nơi ngự trị của mình.

Người anh hùng làng Gióng sau khi dẹp xong giặc Ân từ chân núi Sóc Sơn mà bay về trời.

Ở Trung Hoa, núi Bất Chu trong huyền thoại là một cái trụ chống trời. Còn ngọn núi cao nhất lại là Côn Luân. Người ta ví đó là cái thang để leo lên trời. Khung cảnh nơi đây uy nghiêm, mỹ lệ. Chính nó là chốn mà mỗi khi vua Vàng (Hoàng đế) nhàn rỗi, lại xuống đây để thư thái tâm hồn.

Ở huyền thoại lập quốc của Hàn, dấu ấn núi non cũng đậm nét. Huyền thoại cổ nhất (Tangun) kể rằng khi Huanung xuống trần gian, cha ông đã xem xét và chọn núi T’aeback (Thái Bạch) – nơi cho ông đặt chân đến đó cai trị loài người. Sau này khi Tangun lên ngôi được 1500 năm thì ông lên ở ẩn tại vùng Chang tang kung rồi trở thành thần Núi.

Như vậy, yếu tố núi trở thành trung tâm trong cảnh quan địa lý của Việt Nam, Trung Hoa, Hàn Quốc. Trên thực tế, yếu tố này không chỉ tồn tại với tư cách là cảnh quan địa lý thuần tuý, mà tuỳ theo đời sống và đặc trưng mỗi nơi, núi non đã được nâng lên thành biểu tượng. Ở Việt Nam, hình dung về non về nước đã tồn tại như một khái niệm, được nâng lên ở tầm suy tưởng cao siêu – trở thành sự hoà hợp thống nhất về những tình cảm bền vững, sắt son, về lời thề thuỷ chung, gắn bó. Ca dao xưa, những câu hay nhất là những câu nói về cảnh non nước:

“Nàng về nuôi cái cùng con
Để anh đi trảy nước non Cao Bằng”

Ở Trung Hoa, núi non gắn với khát vọng lên cao, lý tưởng hướng tới của con người. Chẳng thế mà sau này trong giai đoạn đỉnh cao của thơ ca đời Đường, nhiều nhà thơ nơi đây đã tìm cảm hứng ở cảnh núi non. Đề tài “đăng cao” trở thành nguồn cảm hứng chính và in dấu lại nhiều thi phẩm để đời.

Hàn Quốc núi non nhiều vô kể. Nhưng từ trong huyền thoại, nó đã bước ra đời sống, trở thành một phần tâm thức, trí tuệ, xúc cảm, niềm tin, cội nguồn sáng tạo nghệ thuật của con người nơi đây. Nói như GS. Lishongmi: “Núi đã trở thành bản sắc của Hàn Quốc”[5].

Trong cảnh quan địa lý của bốn nước, Nhật Bản là quốc gia có sự khác biệt rõ rệt nhất so với Việt Nam, Trung Hoa, Hàn Quốc. Mặc dù núi non ở đây nhiều nhưng trong huyền thoại, dân gian xưa lại nhắc đến những hòn đảo. “Tính chất đảo” làm cho Nhật trở thành quốc gia khép kín, trong tính cách lại có phần khó hiểu và bí hiểm vô cùng. Yếu tố đảo khiến Nhật dù nằm trong khối đồng văn song vẫn có tính dị biệt. Nhật Chiêu nói: “Đó là một nền văn hoá phương Đông tuy gần gũi mà vẫn còn rất lạ với chúng ta – tuy đồng văn đó mà dường  như vẫn còn dị mộng”[6].

Nói chung, cảnh quan địa lý, dấu ấn nông nghiệp cũng là đặc điểm chúng tôi khai thác khi tìm hiểu thế giới huyền thoại của bốn quốc gia.

b) Dấu ấn nông nghiệp

Dấu ấn này ở mỗi nước Việt – Trung – Hàn – Nhật rất rõ và thể hiện ở nhiều phương diện. Ở đây, chúng tôi chỉ đề cập đến tín ngưỡng thờ mặt trời.

Thực ra, mọi nền văn minh sơ khai trên trái đất đều thờ thần mặt trời. Những chữ viết đầu tiên của nhân loại khắp nơi tương đồng một cách đáng ngạc nhiên ở chữ “mặt trời”: một vòng tròn có chấm chính giữa. Thần mặt trời ở Ai Cập mà ra, tại Lưỡng Hà có Samat, ở Nhật là Amaterasu. Vua của người Trung Quốc và cả người Inca tận châu Mỹ đều tin mình là con trời hoặc của thần mặt trời. Việt Nam đưa hình ảnh mặt trời vào trung tâm của trống đồng Đông Sơn.

Trên đây là tất cả những chứng tích “vật chất” mà chúng ta thấy được. Tín ngưỡng thờ thần mặt trời trong huyền thoại được thể hiện dưới dạng những câu chuyện kể. Ở Việt Nam, tuy không đậm nét nhưng việc Hùng Vương kén rể với đồ vật thách cưới là “voi chín ngà, gà chín cựa, ngựa chín hồng mao” (Sơn Tinh – Thủy Tinh), chúng tôi cho rằng trong tâm thức của người Việt cổ, họ ý thức rất rõ về vai trò của thần mặt trời. PGS. Nguyễn Bích Hà từng nhận định: “Thần thoại Việt, con gà là con vật duy nhất được gọi là mặt trời”[7]. Ở Trung Hoa, có thần Viêm đế cai quản vùng nóng nực phương Nam, mang ánh sáng đến cho muôn vật và con người. Ở Hàn Quốc, tín ngưỡng thờ thần mặt trời thông qua các yếu tố liên quan đến ánh sáng: ánh sáng chiếu vào ngực mẹ Yoo Wa khiến nàng mang thai, sinh ra vua nước Koguryo; 6 cậu bé được sinh ra từ 6 quả trứng trong huyền thoại Kaya cũng rạng rỡ như mặt trời… Riêng Nhật Bản, họ coi nữ thần mặt trời là vị thần hộ mệnh cho cả dân tộc, dẫn dắt, che chở và thân thiết như tổ tiên của họ vậy.

Tín ngưỡng thờ thần mặt trời ở 4 quốc gia Việt Nam, Trung Hoa, Hàn Quốc, Nhật Bản gắn với cư dân nông nghiệp trồng lúa nước – bởi trong nông nghiệp, ngoài yếu tố nước thì ánh sáng rất cần thiết cho quá trình canh tác.

Trên đây, chúng tôi đã trình bày một vài nét cơ bản nhất về khuynh hướng sáng tạo, cảm hứng sáng tạo, cảnh quan địa lý, dấu ấn nông nghiệp mà chúng tôi nhận thấy trong huyền thoại lập quốc của 4 nước: Việt – Trung – Hàn – Nhật. Phần cuối cùng của tham luận này, chúng tôi tập trung vào các môtíp, cụ thể là Môtíp quả trứng khởi thuỷ và Môtíp loạn luân.

2.1.4. Môtíp quả trứng khởi thủy, Môtíp loạn luân y Môtíp quả trứng khởi thủy

Để tiện cho bạn đọc theo dõi, chúng tôi tóm tắt lại trong bảng sau:

Tên nước Việt Nam                                            Hàn Quốc Trung Hoa Nhật Bản
 

Các dạng

Từ cái bọc có trăm trứng sinh ra trăm người con Từ cái bọc 6 quả trứng, sinh ra 6 người Vũ trụ là một quả trứng, sinh ra một vị thần Vũ trụ là một quả trứng, sinh ra một vị thần

Từ bảng trên, chúng tôi thấy môtíp quả trứng khởi thuỷ xuất hiện trong huyền thoại lập quốc của cả 4 nước. Tuy nhiên, không huyền thoại nào nói rõ quả trứng khởi thuỷ từ đâu. Chúng tôi cho rằng quả trứng ấy có thể lúc đầu do một loài chim sinh ra. Quá trình ấy diễn tiến như sau:

vaq

Gắn lối tư duy này vào huyền thoại lập quốc, nó đã thuộc về tầm nhận thức khá cao của con người thời tiền sử. Nếu như huyền thoại quả bầu, giải thích loài người hoặc tộc người được sinh ra từ đó (tư duy vẫn còn gắn với thực vật) thì lối tư duy trên cho rằng chim là khởi đầu cho sự sinh nở thần – người đã gắn với động vật. Do vậy, nguyên lý Đực – Cái bắt nguồn từ đây, chứng tỏ ý niệm về nguồn gốc, tổ tiên đã có phần sáng rõ, dù xét đến cùng, nó vẫn còn rất ngây thơ.

Trong môtíp quả trứng khởi thuỷ, chúng ta phần nào hiểu được tâm tư của người xưa khi hiểu về giống nòi họ. Sang môtíp loạn luân, chúng ta lại thấy một phương diện khác, vừa liên quan đến huyền thoại lập quốc, lại gửi gắm nhiều ý tưởng kín đáo, thâm trầm.

– Môtíp loạn luân:

Trong truyện Việt Nam, mối quan hệ giữa Lạc Long Quân và Âu Cơ ban đầu là chú – cháu (Lạc Long Quân lấy con gái của anh mình là Âu Cơ). Họ lấy nhau sinh ra 100 trứng – trong đó có Hùng Vương làm vua nước Văn Lang.

Huyền thoại Tangun (Korea) kể rằng Hoàng Hùng (Huanung) lấy con gái Gấu – còn có tên là Hùng nữ do ông ta hóa phép mà thành. Họ lấy nhau, sinh ra Tangun – vua đầu tiên của nước Choson.

Huyền thoại Trung Hoa kể rằng: Phục Hy – Nữ Oa là hai anh em ruột. Lúc đó trên thế giới này xảy ra một trận lụt lớn, loài người chết hết chỉ còn hai anh em sống sót nhờ chui vào quả bầu. Họ thoát nạn, chui ra từ quả bầu và bắt đầu một cuộc tái sinh màu nhiệm: sáng tạo ra loài người, những thứ liên quan đến cuộc sống con người.

Huyền thoại Nhật Bản cũng kể: hai vị thần Izanagi và Izanami là hai anh em ruột do trời phái xuống trần gian. Họ tỏ tình, kết hôn, nên vợ nên chồng, rồi sinh ra những hòn đảo xinh đẹp.

Từ những dẫn chứng trên, chúng tôi thấy môtíp loạn luân có trong huyền thoại bốn nước. Căn nguyên của sự trùng lặp này có thể gắn với chế độ tạp hôn thời nguyên thủy khi con người còn trong trạng thái bầy đàn. Song nếu xem xét kỹ đó không phải là vấn đề cốt lõi, đặc biệt khi đặt nó trong sự tương quan với những huyền thoại về việc lập quốc. Thực ra, việc kết hôn giữa những người cùng huyết thống trong xã hội nguyên thủy không phải chuyện tuỳ tiện. Nó thuộc một trong rất nhiều yếu tố cấm kỵ của loài người buổi sơ khai. Việc này chỉ xảy ra trong những trường hợp hết sức đặc biệt hoặc liên quan đến sự kiện quan trọng nào đó như: sự tái sinh loài người, việc cần thiết phải duy trì nòi giống hoặc gây dựng lại cộng đồng. Điều này rất trùng hợp với môtíp loạn luân trong huyền thoại bốn nước. Nếu đặt chúng dưới sự soi chiếu của huyền thoại lập quốc, thì chính nhờ những cuộc hôn phối “bất thường” này đã dẫn đến sự sinh nở thần kỳ. Và đằng sau cuộc sinh nở ấy là những con người cũng hết sức phi thường. Chính họ sau này lớn lên, trưởng thành sẽ là những ông vua, anh hùng, đấng sáng tạo. Nhờ bàn tay, khối óc của họ mà đất nước buổi đầu từ trong “trạng thái hỗn mang chuyển sang trạng thái vũ trụ”, nghĩa là từ chỗ trên mặt đất chẳng có gì, trở thành một tổ chức văn hoá. Ở Việt Nam, chính nhờ các vua Hùng, mới tồn tại nước Văn Lang – Âu Lạc. Ở Hàn Quốc, Tangun là vua lập ra nước Chooson. Trên đất Trung Hoa, những con người được sinh ra từ bọc giấy đầy cục thịt của Nữ Oa sẽ là những con người góp phần quan trọng vào cải tạo xã hội. Tại Nhật Bản, Izanaagi và Izanami lấy nhau, sinh ra những hòn đảo – đứa con ấy chính là xứ sở của đất nước mặt trời mọc ngày nay.

Tóm lại, qua huyền thoại lập quốc của bốn nước: Việt Nam, Trung Hoa, Hàn Quốc, Nhật Bản, chúng tôi không có tham vọng dựng lại toàn bộ bức chân dung tinh thần của mỗi nước, mà chỉ phác thảo ở những nét cơ bản nhất, cốt lõi nhất. Qua đó, chứng tỏ rằng huyền thoại dù hư ảo đến đâu vẫn gắn chặt với hiện thực: hiện thực của tình cảm biết ơn tổ tiên, ý thức nguồn cội và khát vọng chinh phục thế giới của nhân loại buổi đầu. Và tất cả những tình cảm đẹp đẽ đó vẫn còn là điều đáng quý đối với chúng ta hôm nay.

Thế giới của huyền thoại cũng lung linh nhiều sắc màu như bản thân nó vậy. Huyền thoại lập quốc dẫu sao cũng chỉ là một lát cắt như trong cái mênh mông vô tận đó mà thôi.

ThS. Hà Đan
Viện Nghiên cứu Đông Nam Á
Tranh minh họa: Tuyệt Duyệt.


Tài liệu tham khảo:

[1] Xin xem: Nguyễn Đổng Chi. Lược khảo thần thoại Việt Nam, Nxb Văn Sử Địa, Hà Nội 1956.

[2] Lê Chí Quế. Văn hóa dân gian – Khảo sát và nghiên cứu, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội, 2001, tr 52.

[3] Nhật Chiêu. Văn học Nhật Bản từ khởi thủy đến năm 1868, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 2005, tr 27.

[4] Lê Chí Quế, Phan Thị Thu Hiền. Huyền thoại lập quốc ở Korea và Việt Nam, tạp chí Văn hóa Dân gian, số 4/2004, tr 39.

[5] Đặng Văn Lung. Tiếp cận văn hóa Hàn Quốc, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội, 2002, tr 65.

[6] Nhật Chiêu. Nhật Bản trong chiếc gương soi, Nxb Giáo dục, Hà Nội, 1999, tr 3.

[7] Nguyễn Bích Hà. Tuyển tập truyện cổ Nhật Bản, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội, 2001, tr 8.

Trả lời

Điền thông tin vào ô dưới đây hoặc nhấn vào một biểu tượng để đăng nhập:

WordPress.com Logo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản WordPress.com Đăng xuất /  Thay đổi )

Facebook photo

Bạn đang bình luận bằng tài khoản Facebook Đăng xuất /  Thay đổi )

Connecting to %s

Trang web này sử dụng Akismet để lọc thư rác. Tìm hiểu cách xử lý bình luận của bạn.